Kinh Phật

Bài kinh: Dấu hiệu nhận biết hội chúng thực hành lục hòa đã có khả năng tự độ

Chủ nhật, 29/07/2022 07:38

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật du hóa tại Bạt-kì, thôn Xá-di. … Một hôm Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na cùng nhau đến chỗ Đức Phật, chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát dưới chân Ngài. Xong rồi, Tôn giả A-nan đứng qua một bên và Châu-na ngồi xuống một bên.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Tôn giả A-nan bạch với Đức Thế Tôn:

- Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay Sa-di Châu-na đi đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ sát chân con, rồi ngồi qua một bên. Và con hỏi: “Này Hiền giả Châu-na, từ nơi nào đến đây, và an cư mùa mưa ở đâu?”

Sa-di Châu-na liền trả lời con: “Thưa Tôn giả A-nan, con từ Ba-hòa đến, an cư mùa mưa ở Ba-hòa. Thưa Tôn giả A-nan, tại Ba-hòa có một Ni-kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời không bao lâu, thì các đệ tử Ni-kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại nhau; họ đấu tranh, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: “Ta biết pháp này, Ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn Ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn Ngươi không phù hợp. Điều đáng nói trước, Ngươi nói sau; điều đáng nói sau Ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn Ngươi không bằng. Ta hỏi việc Ngươi, Ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, Ngươi còn hỏi nữa. Nếu Ngươi động thủ, ta sẽ cột trói Ngươi”.

Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau; ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để khiển trách. Có những người bạch y tại gia đệ tử của Ni-kiền Thân Tử thấy vậy, họ đều chán nản và tránh xa các đệ tử này của Ni-kiền Thân Tử. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện Thệ; đó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác.

Bạch Đức Thế Tôn, con nghe rồi kinh sợ hãi hùng, toàn thân lông tóc dựng đứng. Mong sao, sau khi Thế Tôn nhập diệt, đừng có một vị Tỳ-kheo nào ở trong chúng mà gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người; đó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc; cho đến loài Trời và loài Người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thấy một vị Tỳ-kheo ngồi trước Đức Thế Tôn, chí tâm kính trọng Đức Thế Tôn, khéo bảo vệ đấng Thiện Thệ. Bạch Đức Thế Tôn! Con thấy như vậy rồi liền nghĩ, nếu sau này khi Đức Thế Tôn nhập diệt mà vị Tỳ-kheo ấy ở trong chúng gây ra sự đấu tranh, thì sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người; đó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho đến loài Trời, loài Người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn.

Đức Phật nghe A-nan bạch xong liền nói:

Này A-nan! Nay ta nói cho Thầy sáu pháp ủy lạo, hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ kỹ.

Tôn giả A-nan bạch:

- Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe.

Đức Phật dạy:

- Thế nào gọi là sáu? Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng Phạm hạnh, pháp ấy gọi là pháp ủy lạo, đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh, pháp ấy gọi là pháp ủy lạo. Đó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Có lợi lộc nào đúng pháp mà nhận được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia sẻ cho các vị đồng phạm hạnh, pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho tương thân, khiến cho tương kính, khiến cho tương trợ, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho đoàn kết, tác thành Sa-môn, tác thành nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất, được bậc Thánh khen ngợi, đầy đủ, thọ trì cẩn thận; với giới phần như vậy, cùng chia sẻ với các vị đồng Phạm hạnh, pháp đó là pháp uy lạo, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Nếu có kiến giải của bậc Thánh, có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiết phần như vậy, cùng chia sẻ với các vị đồng Phạm hạnh, pháp đó là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.

Này A-nan, Ta vừa nói sáu pháp ủy lạo; vì vậy mà Ta giảng giải. Này A-nan, nếu các Thầy đối với sáu gốc rễ của đấu tranh mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp chấm dứt đấu tranh, khi trong Tăng chúng khởi lên đấu tranh, thì chấm dứt bằng luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ giẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lạo ấy, thì này A-nan, như vậy sau khi Ta diệt độ, các Thầy sống cộng đồng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, an lạc du hành như lúc Ta còn tại thế.

Tôn giả A-nan và Sa-di Châu-na sau khi nghe Đức Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ phụng hành.

(Trích soạn từ: Kinh Châu Na, Hòa thượng Thích Thiện Siêu – Việt dịch. Xem: Đại Tạng Kinh Việt Nam, Kinh Trung A-Hàm – Tập 4, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2005, tr. 339-361) 

loading...