Sách Phật giáo
Hòa bình thế giới qua sự kết hợp hai quan điểm của Immanuel Kant và Phật giáo
Chủ nhật, 18/06/2014 08:44
Phật giáo xác định bản chất con người và cấu trúc của nguyên nhân dẫn đến bạo lực. Phật giáo có sức mạnh văn hóa có thể thúc đẩy và quy trách nhiệm đạo đức cho con người trong việc đạt được các lý tưởng hòa bình
Tham luận “The way to world peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác giả trình bày tại Diễn đàn Phật giáo và Xây dựng hoà bình thế giới, Trung tâm Hội nghị Quốc tế Bái Đính, Ninh Bình ngày 9.5.2014 và in trong Buddhist Contribution to Global Peace Building, Most Ven. Dr. Thich Nhat Tu and Most Ven. Dr. Thich Duc Thien (Eds.), Vietnam Buddhist University Press Series 24, 2014, 251-294.
Bản Việt dịch của Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Viên Ngạn được đăng tại ấn phẩm IV của Đại lễ VESAK LHQ 2014 Việt Nam, trang 247-291. Bản lược dịch sau đây là của tác giả.
Bản Việt dịch của Tỳ Kheo Ni Thích Nữ Viên Ngạn được đăng tại ấn phẩm IV của Đại lễ VESAK LHQ 2014 Việt Nam, trang 247-291. Bản lược dịch sau đây là của tác giả.
* * *
Toát yếu:
Thời đại chiến tranh toàn cầu chống khủng bố đòi hỏi một lộ trình mới cho hòa bình thế giới. Triết gia Immanuel Kant chỉ ra rằng sự phát triển tiệm tiến của các thể chế con người là chìa khóa dẫn đến hòa bình thế giới, và rằng các nguyên tắc pháp luật, đạo đức và chính trị được thiết lập một cách toàn diện sẽ trở thành một động lực thúc đẩy quyền tự quyết của các cá nhân, các dân tộc và toàn nhân loại một cách có hệ thống. Một liên minh quốc tế vì hòa bình, nền hiến pháp cộng hòa quốc gia và luật công dân thế giới là những công cụ pháp lý cần phải được thực hiện.
Hơn nữa, Phật giáo đề cao hòa bình không chỉ trên phương diện bản thể mà còn như một phương tiện. Phật giáo xác định bản chất con người và cấu trúc của nguyên nhân dẫn đến bạo lực. Phật giáo có sức mạnh văn hóa có thể thúc đẩy và quy trách nhiệm đạo đức cho con người trong việc đạt được các lý tưởng hòa bình: cơ sở chung của hệ thống giá trị, đức hạnh, quyền và trách nhiệm, văn hóa bất bạo động, sự đoàn kết và lòng khoan dung. Bằng cách liên kết với các phật tử, mọi người trên thế giới có thể cảm thấy đủ mạnh mẽ để đối phó với các vấn đề của thế giới đương đại.
Vì lẽ đó, đạo đức Phật giáo được gọi là một kỹ năng mang tính khái niệm cần thiết cho một dự án giáo dục hòa bình trong khi tiêu chuẩn đạo đức mà Kant đề xướng được gọi là một kỹ năng có tính kỹ thuật cần thiết cho phong trào phát triển nền pháp trị. Cả hai đều là những nhân tố bảo đảm cao nhất cho hòa bình, và do đó trở thành mô hình mới trong công cuộc điều hướng hòa bình. Sự hợp tác ở cấp độ địa phương như vậy có thể góp phần vào quá trình xây dựng và gìn giữ hòa bình trên toàn thế giới. Bây giờ là thời điểm chín muồi để giới thiệu một cách tiếp cận hợp nhất như vậy.
Đối sách:
Dựa trên sách lược hiện thực này, Liên Hiệp Quốc phải cùng sát cánh và đóng vai trò hỗ trợ đối với Liên đoàn Phật giáo quốc tế và Hiệp hội Quốc tế các Trường Đại học Phật giáo để tạo thuận lợi cho công việc hòa bình, vốn là một công việc chung. Các chính quyền quốc gia, các đoàn thể dân sự, các doanh nghiệp, tôn giáo, gia đình cũng như các cá nhân phải nhận lãnh một vai trò quan trọng và trực tiếp ở cấp độ trong nước. Bằng cách hỗ trợ xác định các kỹ năng cần thiết nhất ở các cấp độ trách nhiệm khác nhau, các thể chế và các mạng lưới có tầm ảnh hưởng toàn cầu có thể trở nên hữu ích trong việc lựa chọn, đào tạo và đề bạt.
* * *
Dẫn nhập
Thế giới chúng ta đang trải nghiệm những thách thức nghiêm trọng khi khủng bố càng lan rộng. Dù phải đối phó với thực tế của chiến tranh, nhưng thế giới vẫn còn thiếu một viễn kiến cần thiết cho việc kiến tạo và giữ gìn hoà bình, vì tất cả mọi luận điệu hoà giải trong quá khứ không còn hữu dụng và có một cái gì đó sai lầm cơ bản trong các hệ thống chính trị, triết lý, tôn giáo và luật pháp. Những ưu tư về các nan đề chủ yếu của thời đại là: Chúng ta đang ở đâu, sẽ đi về đâu và được phép hy vọng gì? Làm sao ngăn ngừa baọ lực và thực hiện hoà bình? Và tại sao những nỗ lực phải dựa trên cơ sở đạo đức?
Đã đến lúc vấn đề hoà bình trong bối cảnh chung của thế giới đang biến đổi cần được đặt ra mà cụ thể là vai trò của các tác nhân quốc tế và quốc gia, quy định của thể chế, bản chất của con người và nguyên nhân của việc sử dụng bạo lực, và quan trọng nhất là các phương tiện và kỹ thuật để phục vụ cho hoà bình.
Nói chung, có nhiều phân tích đạo đức cho hoà bình thế giới, nhưng kỳ thực các ý kiến này là quá mênh mông mà đạo đức học lại không thể nghiên cứu hết các hậu quả phức tạp của việc hợp tác quốc tế để ngăn ngừa và giải quyết xung đột và theo dõi diễn biến của bối cảnh hậu xung đột. Học giới luật quốc tế không chú trọng đến khiá cạnh đạo đức khi đề ra luật áp dụng mà việc áp đặt luật pháp, tự nó, sẽ không giải quyết được thù hận đã hằn sâu trong lòng người và tham vọng dành quyền lực còn tiếp tục. Nhưng bi quan nhất là việc điều hành của cơ quan Liên Hiệp Quốc (LHQ) đang bị chìm đắm trong bối cảnh hỗn loạn chính trị và bất trắc kinh tế thế giới, nên bất lực trong khả năng bối đấp cho hoà bình.
Dĩ nhiên, đã có nhiều nỗ lực khác nhau cho việc xây dựng hòa bình, thí dụ như triết giới cố tìm những căn bản trách nhiệm mới cho cá nhân, doanh nghiệp và thể chế trong việc cải thiện trật tự thế giới. Luật giới tìm cách thay đổi luật chiến tranh để thích ứng với tình hình. Cơ quan LHQ cũng khởi động cải cách toàn diện hơn với hy vọng là sẽ có nhiều thẩm quyền và phương tiện để hoàn thành sứ mệnh về hoà bình.
Trong chiều hướng này, cựu Tổng Thư ký LHQ Boutros Boutros-Ghali lập luận là: “Muốn các hoạt động kiến tạo và gìn giữ hòa bình đạt được thành công, chúng ta cần có những nỗ lực tìm hiểu và hỗ trợ những cấu trúc nhằm cũng cố hoà bình và nâng cao ý nghiã của niềm tin và phúc lợi cho tất cả mọi người." Đây là mục tiêu đáng được chúng ta theo đuổi.
Bản tham luận này đề xuất một cuộc đối thoại giữa hai lĩnh vực Phật học và Luật học chuyên nghiên cứu về hoà bình nhằm mục đích là cả hai sẽ đạt đến một sự hợp tác có ý nghĩa hơn. Trong khi hợp tác thể chế đem lại nhiều lợi điểm cho việc tăng cường vai trò của luật pháp, thì hiểu biết về nhân tính theo quan điểm của Phật giáo lại càng thiết yếu hơn trong lĩnh vực giáo dục.
Muốn đạt thành quả này, một khảo hướng liên ngành hoà bình theo triết học của Kant và Phật giáo là một ý kiến mới. Tham luận sau đây sẽ trình bày lý tưởng tổng hợp này. Tác giả sẽ thảo luận về một đường lối dựa trên phương cách đạo đức của luật quốc tế và dùng phương cách tiếp cận này làm định hình cho các nhu cầu nghiên cứu trong tương lai.
Muốn đạt thành quả này, một khảo hướng liên ngành hoà bình theo triết học của Kant và Phật giáo là một ý kiến mới. Tham luận sau đây sẽ trình bày lý tưởng tổng hợp này. Tác giả sẽ thảo luận về một đường lối dựa trên phương cách đạo đức của luật quốc tế và dùng phương cách tiếp cận này làm định hình cho các nhu cầu nghiên cứu trong tương lai.
Tác giả sẽ theo một trình tự thảo luận như sau. Phần khởi đầu trình bày về ý nghĩa của hoà bình. Phần hai giới thiệu khái quát về nội dung tác phẩm “Hướng về một nền hoà bình vĩnh cữu - Một sơ thảo triết học“ của Kant. Phần ba tóm lược quan điểm của Phật giáo về hòa bình, đặc biệt nhất là nguyên nhân sử dụng bạo lực và phương cách giải quyết. Để kết thúc tác giả kết hợp hai khảo hướng và định hình một khuôn mẫu giá trị mới cho việc nghiên cứu hòa bình thế giới.
Nếu hai lĩnh vực kết hợp được nhau, thì khảo hướng này sẽ mang đến những biện pháp cụ thể bất bạo động để giải quyết các tranh chấp, bất kể bắt nguồn từ đâu, giữa các cá nhân, đoàn thể xã hội hay các chính quyền.
Ý nghĩa của hoà bình -Ý nghĩa truyền thống
Hoà bình không phải là một khái niệm mới mà đã có từ trong những truyền thống văn hoá ngàn xưa, đặc biệt nhất là tại Trung Quốc, và một trong những triết gia tiêu biểu nhất là Lão Tử. Ông sống vào khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên và là tác giả Đạo Đức Kinh. Trong tác phẩm này, Lão Tử bàn đến những hình ảnh an hoà của nước và gió. Dù đặc điểm của cả hai là mềm yếu nhưng đó chính là hai phương tiện cực kỳ hữu dụng, còn mạnh hơn sắt và đá. Vì đặc điểm này mà ông khuyên giới lãnh đạo quân sự nên thông minh hơn để tìm cách sử dụng trong các chiến lược quân sự.
Ngược lại, Mặc Tử (468-391 trước Công nguyên) có quan điểm hiếu hoà và lập luận là tình yêu là một giá trị đạo đức nhân sinh phổ quát và hoà bình là một mục tiêu nhân bản đáng tôn trọng nhất và luôn nằm trong tầm tay của con người. Nói một cách đơn giản, ông cho rằng: “Hãy làm điều thiện cho tha nhân, thì tha nhân đối xử tốt đẹp với ta." Nhưng quan trọng nhất có lẽ là Khổng Tử, (551- 479 trước Công nguyên) tác giả Luận Ngữ. Ông lập luận là hoà bình là một tình trạng an hoà trong xã hội và cũng là một mục tiêu tối hậu của con người. Để đạt đến mục tiêu này ta phải đối xử với thuộc hạ giống như đối với bậc trưởng thượng.
Lý tưởng về hoà bình cũng có nền tảng trong Thiên Chuá giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo. Theo nhận xét chung của các sử gia thì các tôn giáo này là hiếu chiến lúc cổ thời. Các Đấng Abraham, Mose và David được mô tả là một khuôn mặt đấu tranh trong Cựu Ước và những người Do Thái là những chiến binh không khoan nhượng. Qua thời gian các truyền thống đều thay đổi, nhất là trong Thiên Chúa giáo. Tình yêu thương và tinh thần bất bạo động được đề ra trong Tân Ước, thí dụ điển hình là khi Đức Chuá Jesus có nói với tín hữu trong thông điệp về Hoà Bình của Ngài: “Ta xin gởi lòng bình an đến anh chị em."
Khác hằn với truyền thống tôn giáo, hòa bình không phải là vấn đề nổi bật trong nền văn hoá thời cổ của Hy Lạp, vì hầu như không có một khái niêm nào rõ rệt về chiến tranh hay hoà bình. Thuycydides là một sử gia, tác giả Đối thoại Melian, đề xuất là quân bình cấu trúc quyền lực là thiết yếu và phải được duy trì để kiến tạo hoà bình tại các thành phố của Hellas.
Trong tác phẩm lịch sử về chiến cuộc Peloponnesian, ông cho là thoả ước giữa các quốc gia là có tầm quan trọng và chính giới phải nỗ lực để tránh làm tan vỡ kết ước.
Ngay trên bãi chiến trường, tướng lãnh cũng phải đối xử bình đẳng và tôn trọng kẻ thù. Trong chiều hướng này, Aristote trong tác phẩm về đạo đức Nichomachean, cổ vũ vai trò mậu dịch và hợp tác để đạt đến hoà bình, mặc dù trong thực tế nhiều cuộc chiến thảm khốc xảy ra trong thời này.
Trong tác phẩm lịch sử về chiến cuộc Peloponnesian, ông cho là thoả ước giữa các quốc gia là có tầm quan trọng và chính giới phải nỗ lực để tránh làm tan vỡ kết ước.
Ngay trên bãi chiến trường, tướng lãnh cũng phải đối xử bình đẳng và tôn trọng kẻ thù. Trong chiều hướng này, Aristote trong tác phẩm về đạo đức Nichomachean, cổ vũ vai trò mậu dịch và hợp tác để đạt đến hoà bình, mặc dù trong thực tế nhiều cuộc chiến thảm khốc xảy ra trong thời này.
Ý nghĩa hiện đại
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về các ý nghiã dị biệt của hoà bình. Theo nghĩa rộng, hoà bình được hiểu chung là hạnh phúc, hoà hợp, công bình, tự do và có hai khiá cạnh là tích cực và tiêu cực. Tích cực có nghiã là các thành tố đóng góp cho tình trạng hoà bình của cá nhân và xã hội đạt được mơ ước. Tình trạng cá nhân đó là sự bình yên nội tại trong con người và an hoà xã hội nhằm chỉ sự hoà hợp của các cá nhân khi chung sống. Hoà bình theo nghĩa tiêu cực được hiểu là sự vắng mặt của chiến tranh hay các hình thức khác của các xung đột. Hình thức tiêu cực này lại hỗ trợ tích cực cho hoà bình trong thời kỳ thương thuyết, bởi vì các phe lâm chiến đang cần đình chỉ giao tranh.
Thực ra, hoà bình theo nghĩa tiêu cực không luôn là một giải pháp tương ứng tốt đẹp, vì đó cũng có thể là do ý chí chính trị của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, thí dụ như hoà bình dưới thời đế quốc La Mã. Hoà bình là nhờ có bạo chúa đàn áp khi áp dụng luật La Mã, kết quả của chế độ nô lệ và độc tài và vì thế mà không thể gọi là hoà bình theo một ý nghĩa chân chính.
Theo trào lưu chung các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn về tầm quan trọng của hoà bình theo ý nghĩa tích cực. Họ lập luận là sử dụng bạo lực trực tiếp và kết quả bi thảm của đàn áp dễ nhận ra hơn. Vì thế mà họ giải thích nguyên nhân của xung đột là do sử dụng bạo lực theo tính cấu trúc mà các khía cạnh xã hội, văn hoá và kinh tế là vấn đề cần tìm hiểu.
Từ điển Quốc tế Webster định nghiã hoà bình theo những chuẩn mực như sau: thoát khỏi những phẫn nộ hay hỗn loạn của dân chúng; tình trạng bình yên chung, an toàn hay ổn định trong phạm vi một cộng đồng tạo nên do luật pháp, phong tục hay công luận; trạng thái tâm linh hay tinh thần được đánh dấu bởi vì không còn lo âu do những tư tưởng đàn áp hay cảm xúc và cuối cùng là tình trạng hoà hợp giữ các chính quyền, nhất là khi không còn thù hận hay chiến tranh.
Tóm lại, chúng ta có thể kết luận là hoà bình là tình yêu thương, hoà hợp và công bình. Hai khía cạnh tích cực và tiêu cực đều quan trọng và bổ sung nhau. Kiến tạo và gìn giữ hoà bình là một nhu cầu ưu tiên thiết yếu cho nhân loại hôm nay.
Quan điểm của Kant
Bối cảnh
Từ đầu thế kỷ XVII các chuyên gia luật quốc tế bắt đầu quan tâm đến vấn đề tính hợp pháp hay bất hợp pháp của chiến tranh và Grotius là luật gia đầu tiên đề ra nền tảng qua tác phẩm The Law of War and Peace (1625). Ông đề xuất một vài quy luật nhằm làm xoa dịu cho luật thời chiến, nhưng không phân biệt rõ giữa luật pháp và đạo đức cho chiến tranh.
Hoà ước Westphalia ra đời vào năm 1648 và đánh dấu một khởi điểm cho sự phát triển chính trị tại châu Âu vì một hệ thống mới của các quốc gia được hình thành.
Thế kỷ XVIII là kỷ nguyên khai sáng cho châu Âu và hoà bình là một đề tài của môt số nhà tư tưởng lừng danh như Puffendorf, Vattel, Hobbes, Montesqiueu và Rousseau. Nhưng Abbé de Saint Pierre là người đầu tiên đặt vấn đề hoà bình vĩnh cữu theo quan điểm của khoa học chính trị qua tác phẩm “Đề Án Về Một Nền Hoà Bình Vĩnh Cữu Cho Châu Âu“, Projet pour rendre la paix perpétuelle en Europe“, I-II (1713), and III, (1717).
Đối diện với tình hình ngày càng bất ổn, Saint Pierre hoạch định một liên minh để ngăn chận sự bành trướng của Đế Quốc Ottoman và cổ vũ thiết lập một nền hoà bình vĩnh cữu giữa các quốc gia. Đề nghị này gặp nhiều phản bác của Rousseau, Leibnitz và Voltaire vì lý tưởng này là bất khả thi về mặt chính trị.
Trước bối cảnh này, Immanuel Kant (1724-1804) xuất bản tác phẩm “Zum Ewigen Frieden, Ein Philosophischer Entwurf“ (1795) (Huớng về một nền hòa bình vĩnh cữu - Một sơ thảo triết học) sau khi ông đã triển khai hệ thống tư duy về phê phán thuần lý. Ông nghĩ là đã đến lúc cần phải quan tâm nhiều hơn về tính khả thi các nguyên tắc đạo đức mà ông đã đề ra. Sơ thảo này soi sáng những vấn đề triết học cho nguyên tắc sống chung hoà bình giữa các dân tộc và quốc gia. Ông bị tác động mạnh bởi công cuộc đấu tranh giành độc lập của Hoa Kỳ và thành công của cách mạng Pháp. Với sự phát triển này thì hệ thống chính trị phong kiến tại châu Âu đã đến lúc suy tàn, phải được thay thế bằng thể chế dân chủ và cần có một liên minh giữa các quốc gia để cùng theo đuổi một mục tiêu cao cả. Nếu các quốc gia hợp tác chặt chẽ nhau, thì thế giới sẽ được an bình và thịnh vượng. Để bảo vệ hoà bình vĩnh cữu, cần phải có tinh thần thương mại giữa các quốc gia và nền tảng đạo đức của luật quốc tế. Uớc mơ này khó thành tựu vì những lý do khách quan. Nhưng điều làm chúng ta quan tâm nhất là phải ý thức tầm quan trọng của việc kiến tạo hoà bình và tìm cách tạo ra những phương tiện để tiến gần đến mục tiêu.
Ý nghĩa của hòa bình
Theo Kant, hòa bình không phải là một tình trạng tự nhiên trong xã hội và phải được con người thiết lập vô điều kiện. Chúng ta có thể an hưởng một cuộc đình chiến, nhưng không thể coi đó là một hoà bình đích thực và vĩnh cữu, vì vẫn còn sống trong một tình trạng nguy hiểm thường trực và khả năng bùng nổ của những thù nghịch. Bao lâu mà các giới chức ngoại giao vẫn còn có tư tưởng thầm kín về một cuộc chiến tương lai, thì một loại hoà ước như vậy không có giá trị.
Tìm kiếm hoà bình là thực hiện hoà bình được vĩnh cữu. Muốn đạt được, hoà uớc phải ký kết trong một sự thành tín đích thực dựa trên quan điểm đạo đức. Đạo đức của Kant hướng dẫn chúng ta biết về những gì phải làm và không nên làm. Theo ông, có hai loại cưỡng chế, một là có tính giả thuyết và hai là có tính mệnh lệnh hay quyết liệt.
Cưỡng chế theo giả thuyết có nghĩa là một loại mệnh lệnh của lý trí được áp dụng tùy theo điều kiện cụ thể để đạt được một mục tiêu xác định. Loại thứ hai của cưỡng chế là mệnh lệnh dứt khoát hay quyết liệt, có nghiã là lý trí của chúng ta phải tuân thủ mà bất kể là chúng ta có muốn hay không. Chúng ta phải thực hiện nghiã vụ đạo đức này vì đó là một giá trị tự tại và trở thành một nghiã vụ phổ quát.
Đó chính là lý do tại sao mà một nền hoà bình vĩnh cữu không thuần túy là một ước muốn cá nhân về một tình trạng bình yên tạm thời hay ngay cả sự sống còn, đó không phải là kết quả việc thoát khỏi sợ hải hay theo đuổi hạnh phúc. Tìm kiếm hoà bình là một loại cưỡng chế dứt khoát, mệnh lệnh của lý trí thuần túy và là bổn phận đạo đức cho tất cả mọi người. Chúng ta phải tìm kiếm hoà bình, vì hoà bình là một điều tốt đẹp tự tại cho tất cả mọi người.
Một giải pháp tạm thời không luôn đem lại thoả mãn và chiến thắng sau cùng cũng không được vững bền. Vì thế mà hoà bình không phải chỉ là sự vắng mặt của chiến tranh, mà là nỗ lực tự thực hiện, phải đến từ trong hành động có ý thức của cá nhân và tập thể. Nỗ lực này đạt đến tính trường cữu và không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào và phải đưa tới một tình trạng tuyệt đối làm cho chiến tranh không thể xảy ra. Điểm chủ yếu là chúng ta làm thế nào tạo những điều kiện chuẩn bị cho hoà bình
Những điều kiện kiến tạo hoà bình
Tình trạng hoà bình phải được thiết lập, không phải là một tình trạng tự nhiên, vì tự nhiên là còn bị đe dọa thường trực do chiến tranh ngấm ngầm, cho dù không hề có một hành vi thù nghịch nào công khai.
Tình trạng tự nhiên có ảnh hưởng đến nhân tính. Kant nghi ngờ về thiện tính của con người cho dù nhân tính có rất nhiều đặc điểm, thí dụ như yêu thương, hy sinh, hoà ái, mãn nguyện, bất bình, thù ghét, vô cảm, không hoà hợp và cạnh tranh vv…. Tất cả mọi đặc điểm này là những yếu tố giúp ta quyết định hành động, là động cơ chủ yếu cho ta có quyền gây sự và gây chiến. Lý do này hiển nhiên, vì những gì mà chúng làm không nhằm phục vụ cho hoà bình như là một quy luật phổ quát, nhưng là cách để cho chúng ta sử dụng bạo lực. Chúng ta tạo chủ động trong mọi hành vi của mình. Cuối cùng, chúng ta hủy diệt nhau và chỉ còn tìm thấy một nền hoà bình vĩnh cữu trong những nghiã trang rộng lớn, nơi che khuất mọi tội ác đáng bị trừng phạt.
Tình trạng tự nhiên không luôn mang lại an bình và cần chuyển hoá với tương thuận của dân chúng qua hợp đồng. Để thực hiện cần phải có một số điều kiện tích cực và tiêu cực mà Kant gọi là những điều khoản sơ bộ và chung quyết. Sáu điều khoản sơ bộ đầu tiên này là những điều kiện tiêu cực.
Những điều khoản sơ bộ
1. Hoà ước không có hiệu lực khi có những điều khoản bảo lưu để chuẩn bị điều kiện vật chất cho một cuộc chiến trong tương lai.
Chúng ta có thể an hưởng một tình trạng đình chiến lâm thời, nhưng đó không phải là hoà bình vô hạn, vì không ai tạo niềm tin cho việc kiến tạo hòa bình và các phe còn đang hoạch định cho một cuộc chiến trong tương lai. Chiến thuật này không được tín nhiệm và hoà ước soạn thảo trong tình trạng này không hiệu lực.
2. Không có một quốc gia độc lập nào, dù lớn hay nhỏ, điều này không quan trọng, có thể được thụ đắc qua cách chia di sản, trao đổi, mua bán hay tặng dữ.
Sự cấm đoán này có nhiều lý do, nhưng quan trọng nhất là bắt nguồn từ một hợp đồng nguyên thủy giữa nhà nước và dân chúng mà xã hội sẽ định đoạt về vấn đề vẹn toàn lãnh thổ. Chính quyền không thể coi lãnh thổ như là một loại tài sản riêng, đem ra mua bán và không tham khảo ý kiến người dân, đây là chuyện không được phép. Điều khoản này không những được áp dụng trong quá khứ mà còn cho tương lai.
3. Quân đội thường trực phải giải giới qua thời gian.
Huấn luyện quân sự tự nguyện và thường xuyên là cần thiết cho nhu cầu quốc phòng. Quân đội chỉ nhằm sử dụng cho nhu cầu phòng vệ mà không để hủy diệt đối phương. Thế giới giống như đang sống trong chiến tranh khi quân đội các quốc gia luôn đe doạ lẫn nhau. Luôn chạy đua vũ trang thì không thì tránh được chiến tranh. Vũ trang đến một mức độ nào đó, thì gây chiến ngắn hạn sẽ hữu hiệu hơn là thương thuyết, vì gây chiến thường ít tốn kém hơn là nỗ lực kiến tạo hoà bình. Có ba loại quyền lực chủ yếu cho quốc gia: liên minh chính trị, tài chính và quân đội, nhưng quân đội tác hại nhất vì khích động bất ổn ở ngoài nước và thúc đẩy gây hấn trong nước.
4. Nợ công không thể đưọc giải quyết qua hình thức kết ước trong mối quan hệ đối ngoại.
Về mặt lý thuyết, chính quyền phải xử lý vấn đề nợ công cực kỳ cẩn trọng, vay nợ là cần thiết để dùng trong mục tiêu xây dựng, thí dụ như để phát triển cơ sơ hạ tầng và đầu tư cho sản xuất, nhưng tuyệt đối không nên dùng tín dụng ngoại quốc để tài trợ cho tấn công quân sự. Khi nợ công chồng chất và quyền đòi nợ của chủ nợ kéo dài vô tận, thì quyền lực chính trị của chủ nợ tăng cao.
Về mặt thực tế, khi thuế thu không đủ trả lãi và các biện pháp kinh tế không đem lại hồi phục và quân bình kinh tế, thì tất yếu xung đột về những biện pháp bình ổn trong ngắn hạn và duy trì nợ công trong dài hạn sẽ xảy ra. Khi tình hình tài chính mong manh thì chính trị quốc nội dễ bị xáo trộn và khả năng gây chiến giữ các nước gia tăng.
5. Không một quốc gia nào có quyền can thiệp bằng bạo lực vào hiến pháp và chính quyền nước khác.
Không một nước nào được phép tạo điều tai tiếng hay xúc phạm nước khác. Các nước chỉ giới hạn can thiệp nhằm cảnh báo cho nước khác biết là đang ở trong một tình trạng vô luật pháp.Tuy nhiên, khi quốc gia đã được tách rời thành hai nước mới, thì sự can thiệp là có lý do hợp pháp.
6. Không một quốc gia lâm chiến nào được phép gây ra những biện pháp thù nghịch làm cho sự tin tưởng nhau không còn, thí dụ như sử dụng độc chất để giết người, tìm cách hủy bỏ việc đầu hàng, khiêu khích gây nên tình trạng lừa đảo và thù nghịch.
Ngôn ngữ hiếu hoà của giới ngoại giao không thể gây tín nhiệm, nếu họ dùng những chiến thuật bất xứng nêu trên trong lúc thương thuyết. Không có những biện pháp xây dựng niềm tin mà giới ngoại giao chỉ dùng sức mạnh, thì cuối cùng họ sẽ buộc đối thủ rơi vào một tình trạng tự nhiên vô luật lệ và còn cách là lâm chiến. Vì giữa các quốc gia có sự bình đẳng và không có một hệ thống tài phán quốc tế, nên không một phe lâm chiến nào có thể tự tuyên bố là cuộc chiến của mình gây ra là có chính nghiã hay xem đây là một hình thức trừng phạt. Gây chiến theo hình thức này phải bị cấm đoán.
Điều khoản chung quyết
1. Hiến pháp dân sự của từng quốc gia phải theo thể chế công hoà.
Hiến pháp theo thể chế cộng hòa gồm có ba đặc điểm: người dân được hưởng quyền tự do, bình đẳng và phải thượng tôn luật pháp.
Khi người dân ý thức về các phí tổn vật chất và nhân mạng, tổ chức hậu cần lúc gây chiến và kiến tạo hoà bình, thì họ phải có quyền rà soát các loại phí tổn này trước khi quyết định lâm chiến. Ngược lại, các vị vua chuá, dù không tham gia trực tiếp chiến đấu, nhưng lại nhân danh quốc gia để tuyên chiến. Dĩ nhiên, vua chuá không chiụ trách nhiệm về mặt hình luật hay giải trình chính trị.
Có hai loại hiến pháp cộng hoà và dân chủ. Hiến pháp cộng hòa đề cập đến hình thức của chính quyền trong khi hiến pháp dân chủ quan tâm đến quyền tối thượng. Vấn đề cơ bản của hiến định là ai cai trị (độc tài, qúy tộc hay dân chủ) và được cai trị như thế nào (cộng hòa hay chuyên chế).
Dân chủ nghiã là chính quyền thuộc về đa số của nhân dân, không phải do bầu cử giữa những nhóm lãnh đạo hay giữa các chính khách. Ý muốn dân chủ của đa số sẽ là chuyên chính và dân chủ là một chuyên chính tất yếu, vì dân chủ quy định quyền cai trị của hành pháp.
Thể chế cộng hoà tách rời quyền hành pháp ra khỏi quyền lập pháp của chính quyền. Nếu đa số làm luật, thì đa số này không có quyền thi hành luật, vì như vậy sẽ không phù hợp với thể chế cộng hoà. Nói đơn giản hơn, phân quyền là thiết yếu. Theo định nghiã này thì tinh thần đại nghị không thể đạt được trong một chính quyền dân chủ, vì nói là dân chủ nhưng thực ra chỉ là đa số tương đối, trong khi ý chí chung tự nó thể hiện tương phản với lý tưởng tự do tuyệt đối.
Số lượng nhà lãnh đạo, hay giới hành pháp càng ít thì tinh thần của chế độ đại nghị càng thể hiện rõ. Chính quyền theo thể chế cộng hòa cai trị tốt hơn. Nguyên tắc cộng hoà ủy nhiệm quyền lập pháp và hành pháp cho đa số. Quân chủ và qúy tộc luôn dè dặt trong việc cải cách toàn diện thể chế cộng hoà trong khi dân chủ lại có quá nhiều đấu tranh bạo động.
2. Luật quốc tế phải dựa trên nền tảng của liên bang các quốc gia tự do.
Chiến tranh là một tình trang vô luật lệ và phá hủy tàn bạo nhân loại. Tình trạng phúc lợi, phát triển và an ninh của một quốc gia hoàn toàn tùy thuộc vào tình trạng của quốc gia khác. Do đó, mối quan hệ hoà bình phải dựa trên quyền lợi hỗ tương. Mỗi quốc gia có quyền đòi hỏi quốc gia khác tham gia vào một liên minh hoà bình trên cơ sở pháp luật. Chính vì tình trạng bình đẳng giữa các quốc gia mà không thể có vấn đề thứ bậc trên dưới giữa các quốc gia và các dân tộc.
Thực tế cho thấy cường quốc luôn dùng lập luận biện giải cho các hành vi xâm lăng của mình là hợp pháp, xem thường yêu sách của tiểu quốc và hủy diệt mối quan hệ tự nhiên. Vì không có một hệ thống tài phán quốc tế nên cường quốc dễ dàng cưỡng chế quyền của mình và nếu thấy cần sẽ gây chiến để bảo vệ.
Mục tiêu của việc thiết lập liên bang hoà bình là ngăn ngừa chiến tranh. Luật pháp phải cấm đoán gây chiến và phải tạo điều kiện kiến tạo hoà bình. Nhưng chỉ kêu gọi xây dựng hòa bình thì chưa đủ. Liên minh quốc tế vì hoà bình không thể chỉ đem lại ngưng chiến cho một cuộc chiến đặc biệt mà cho tất cả mọi cuộc chiến trong mọi hoàn cảnh và mọi thời gian. Nếu nguyên tắc này được phổ biến thông qua liên minh và có được sự đồng tình của các quốc gia thì với thời gian liên minh quốc tế vì hoà bình sẽ khả thi.
3. Quyền công dân trong thế giới đại đồng phải bị hạn chế, khi mà điều kiện hiếu khách không cho phép.
Về mặt lý thuyết, bảo vệ ngoại kiều không nhằm vào mục tiêu nhân đạo mà là nhân quyền, vì không có bất cứ ai trên quả đất này có nhiều quyền hơn người khác. Người ta bắt đầu thông đạt và thông cảm nhau qua việc sử dụng ngôn ngữ chung và thiết lập hệ thống luật pháp trên điạ cầu. Càng gần nhau qua công việc và cùng thông cảm nhau qua những giá