Sách Phật giáo

Một số tư liệu mới về Bồ tát Thích Quảng Đức

Thứ sáu, 27/03/2013 02:27

Loại thứ nhất là bảy văn kiện liên hệ trực tiếp đến bồ tát Quảng Đức. Loại thứ hai là một văn kiện của bổn sư bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm viết để cúng ruộng cho chùa Long Sơn và tổ đình Linh Sơn



Thế là nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Ý nghĩa của hành động ấy đã được thế giới bàn cải rất nhiều và vị trí lịch sử của bồ tát Quảng Đức trong lòng dân tộc đã được khẳng định từ lâu. Tuy nhiên ngoài bản tiểu sử ngắn ngủi do Uỷ Ban Liên Phái bảo vệ Phật giáo đưa ra sau sự kiện tự thiêu ngày 11 tháng 6 năm 1963, tức ngày 20 tháng tư nhuận năm Quí Mão, mà sau này đã trở thành tư liệu chính thức phổ biến rộng rãi trong các sách báo cho tới tận hôm nay, cuộc đời của bồ tát Quảng Đức trước thời điểm tự thiêu đó vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng.

Thông thường, chúng ta chỉ biết bồ tát Quảng Đức khi lên 7 tuổi thì được cha mẹ cho cậu ruột mình là thiền sư Hoằng Thâm nuôi dạy, rồi xuất gia và đặt tên đạo là Thị Thuỷ, tự là Hạnh Pháp và hiệu là Quảng Đức. Sau khi thọ giới cụ túc, bồ tát nhập thất tu hạnh đầu đà ba năm, xong thì đi hành hoá ở vùng Vạn Ninh và giữ nhiệm vụ kiểm tăng của Chi hội Phật học Ninh Hoà. Đến năm 1943 vào Nam hành hoá, để tới năm 1963 thì phát nguyện tự thiêu. Về giai đoạn bồ tát Quảng Đức ở Vạn Ninh, ta chỉ biết nét đại cương như vừa thấy. 

Gần đây, trong dịp đi điền dã tại Khánh Hoà, nhờ sự giúp đỡ tận tình của đại đức Thích Như Hoằng, một số tư liệu liên hệ đến hoạt động Phật sự của bồ tát Quảng Đức tại vùng Vạn Ninh trước năm 1945 đã được phát hiện, cung cấp cho ta một cái nhìn mới về cuộc đời của bồ tát trong giai đoạn ấy, giai đoạn hình thành nhân cách xả kỷ cứu nhân của bồ tát. Do thế, chúng tôi cho rằng những phát hiện mới này sẽ đem lại một hiểu biết rõ ràng hơn về con người bồ tát Quảng Đức. 

Số tài liệu nầy bao gồm ba loại. Loại thứ nhất là bảy văn kiện liên hệ trực tiếp đến bồ tát Quảng Đức. Loại thứ hai là một văn kiện của bổn sư bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm viết để cúng ruộng cho chùa Long Sơn và tổ đình Linh Sơn và một bài minh khắc trên chuông chùa Long Sơn vào năm Duy Tân thứ hai (1907) do thiền sư Hoằng Thâm đúc sau khi làm chùa xong. Loại thứ ba là những văn kiện liên hệ với tổ đình Linh Sơn và thiền sư Chơn Hương Huyền Túc Thiên Quang (1862-1939), bổn sư của thiền sư Như Đạt Hoằng Thâm. Đây là số tư liệu lần đầu tiên phát hiện và công bố, giúp ta có một hiểu biết rõ ràng hơn về hoạt động Phật sự của bồ tát Quảng Đức từ những năm 1917-1945 cùng của các thầy tổ đã tác thành nên con người Quảng Đức trong nửa đầu của thế kỷ XX.

Tập sách này chia làm bốn chương. Chương thứ nhất là dịch và công bố toàn bộ mười bốn văn kiện liên hệ đến bồ tát Quảng Đức. Chương thứ hai là dịch và công bố văn kiện cúng ruộng của Thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm. Chương thứ ba là dịch và công bố các văn kiện liên hệ đến Tổ sư Chơn Hương Thiên Quang và tổ đình Linh Sơn. Tất cả các bản dịch văn kiện này đều theo niên đại ra đời của chúng, và được đánh số liên tục từ 1 đến 27. Chương thứ bốn là ghi nhận một số nhận xét của chúng tôi về các văn kiện ấy, đặc biệt trong liên hệ với cuộc đời hoạt động Phật sự của Bồ-tát Quảng Đức. Cuối sách chúng tôi cho thiết lập lại niên biểu chi tiết cuộc đời bồ tát Quảng Đức cùng các sự kiện liên hệ.

 

Số tư liệu mới phát hiện này không chỉ cho ta biết về con người bồ tát Quảng Đức, mà còn về các vị thầy tổ đã có công giáo dưỡng và hình thành nên nhân cách xả kỷ vừa nói. Nhân cách ấy không phải ngày một ngày hai mà có được. Nó phải trải qua một quá trình tu dưỡng lâu dài trong một truyền thống Phật giáo tích cực nhập thế mình vì mọi người. Số tư liệu vừa nêu cho ta biết thêm về các hoạt động Phật sự của bổn sư bồ tát Quảng Đức là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm và của tổ sư Chơn Hương Thiên Quang.

Không những thế, số tư liệu này còn giúp ta có một nhận thức rõ ràng hơn về một giai đoạn Phật giáo tại một địa phương không nỗi bật lắm về truyền thống Phật giáo như vùng Vạn Ninh, khi Phật giáo Việt Nam cũng như dân tộc đang thực hiện một công cuộc chuyển mình lớn, để đưa dân tộc cũng như Phật giáo từ dạng truyền thống sang dạng hiện đại vào cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Đây là một giai đoạn lịch sử chưa được nghiên cứu đầy đủ do chưa tập hợp được nhiều tư liệu.

Bởi vai trò quan trọng của số tư liệu vừa nêu, chúng tôi đề nghị cho phiên dịch và in lại bộ nguyên bản toàn bộ văn kiện trên, nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu không chỉ cuộc đời bồ tát Quảng Đức, mà còn cả một giai đoạn Phật giáo đầy biến động của lịch sử dân tộc được đầy đủ hơn trong tương lai. 

Vạn Hạnh đầu hạ năm Ất Dậu (2005 ) 
Lê Mạnh Thát 

Mười bốn văn kiện về bồ tát Quảng Đức Như ta đã biết, bồ tát Quảng Đức sinh tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà vào năm Đinh Dậu (1897), sau đó được cậu ruột mình là thiền sư Như Đạt Giải Nghĩa Hoằng Thâm (1865-1921) đem về nuôi cho xuất gia đã đặt pháp danh là Thị Thủy, pháp tự là Hạnh Pháp và pháp hiệu là Quảng Đức. Trong đợt điều tra điền dã mùa hè năm 2005, được sự giúp đỡ và cung cấp của đại đức Thích Như Hoằng trú trì chùa Thiên Tứ ở Núi Đất thuộc làng Mỹ Trạch, xã Ninh Hà, huyện Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà, chúng tôi đã thu thập được một số tư liệu liên hệ đến hoạt động Phật giáo của bồ tát Quảng Đức trong nửa đầu thế kỷ XX tại vùng Vạn Ninh cùng tổ đình Long Sơn, nơi bồ tát Quảng Đức xuất gia và sau đó làm tri sự và tổ đình Linh Sơn, nơi Bồ Tát kế thế làm trú trì vào những năm 1939-1945. Nhân đây, cho phép tôi cám ơn đại đức Như Hoằng đã hết lòng giúp đỡ và cung cấp các tài liệu liên quan đến bồ tát Quảng Đức và tổ đình Linh Sơn tại Vạn Ninh.

Về mười bốn văn kiện liên hệ đến bồ tát Quảng Đức, chúng tôi lần lượt dịch nghĩa toàn bộ chúng tuần tự từ thời điểm sớm nhất cho đến muộn nhất và đánh số theo thứ tự thời điểm ra đời của chúng từ 1 đến 14.

1. Văn kiện ngày 25 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 8 (1933) 

Khổ 15.5 x 28 gồm 2 tờ giấy bổi đóng lại bằng chỉ giấy bổi. Toàn bộ viết bằng chữ Nho. Chỉ có lời phê của một thủ trưởng (chef de poste) viết bằng bút sắt mực tím. Giữa 2 tờ có đóng dấu giáp lai của xã Phước Thuận và dấu triện của phủ Ninh Hoà. 

Bần tăng chùa Thiên Ân xã Phước Thuận tổng Phước Khiêm phủ Ninh Hoà hiệu Quảng Đức cúi đầu trình xin thương xét phê làm bằng cho phép bần tăng lạc thành chùa Phật sự việc như sau: 

Năm trước bần tăng có lòng thành, thầm nguyện tu tạo cửa ngõ, đúc vẽ tượng Phật, mọi việc đã hoàn tất. Nay hào lý bổn xã và bần tăng đều chọn giờ Thân ngày 26 tháng này thiết trai, lập đàn, đánh trống, thỉnh chuông, mỗi lễ cẩn thận đầy đủ trai giới sám hối, để đền trả công ơn của Phật tổ. Đến giờ Ngọ ngày 28 thì lễ hoàn mãn. 

Bần tăng đến báo rõ cho hào lý sở tại ký nhận, rồi báo rõ cho chánh phó ở trong tổng ký nhận sự thật, nhưng còn trộm sợ không có bằng chứng, chẳng dám tự tiện. Vì thế, cúi xin quan phủ đường đại nhân các hạ xét thương, phê chữ cho phép bần tăng trả ơn Phật tổ. Muôn ngàn trông cậy. Nay cúi đầu trình

Ngày 25 tháng 4 năm Bảo Đại thứ 8 (1933) (có đóng dấu Ninh Hoà phủ ấn và 6 con tem Indochine francais dán hai bên dấu) 

Chánh tổng Nguyễn Liên ký (có đóng dấu của tổng Phước Khiêm) 
Phó tổng Nguyễn Mộc Phỏng ký 
Tùng bát phẩm đội trưởng Võ Văn Đạt thủ ký 
Đại hào Lê Đàm thủ ký 
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng dấu của xã Phước Thuận) 
Tộc biểu Nguyễn Nhượng thủ ký 
Lão nhiêu Lê Mưu thủ ký 
Tộc biểu Lê Giảng thủ ký 
Tộc biểu Đỗ Uý (có lăn dấu tay) 
Tộc biểu Hoàng Huề thủ ký 
Tộc biểu Bùi Thậm thủ ký 
Tộc biểu Dương Lang (có lăn dấu tay) 
Tộc biểu Hồ Qua (có lăn dấu tay) 
Tộc biểu Phan Mãnh (có lăn dấu tay) 
Tộc biểu Trần Túc (có lăn dấu tay) 
Hương bộ Hoàng Tri thủ ký 
Hương kiểm Nguyễn Huấn thủ ký 
Hương bổn Nguyễn Nghĩa thủ ký 
Bần tăng chùa Thiên Ân hiệu Quảng Đức thủ ký

2. Văn kiện ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937)
 

Gồm 11 tờ giấy bổi, khổ 14.5 x 2. Trong đó có 2 tờ chép trùng nhau và có đóng dấu của xã Phước Thuận. Chưa rõ lý do cụ thể tại sao lại có một bản chép trùng nhau như thế. Đây chắc là để bảo đảm, nếu bản chính có mất thì còn có bản phó. Nội dung là để xin sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Từ tờ 3 trở đi trên bản danh sách của người ký xin đều có ghi tám chữ Khất mông ân tứ Thiên Ân tự từ (Đơn xin được sắc tứ cho chùa Thiên Ân).

Bần tăng xã Phước Thuận tổng Phước Khiêm phủ Ninh Hoà Lâm Văn Tuất hiệu Quảng Đức cúi đầu trình xin mong ơn may được chuyển bẩm sự việc như sau: 

Bần tăng ở thờ Phật chùa cổ tích Thiên Ân tại xã ấy (do nguyên trước xã Phước Đức). Nhưng chùa đó vào khoảng năm Minh Mạng (1820-1840) có trú trì Hoàng Văn Dự pháp danh Thiên Phước ở đấy tu trì. Lần ấy, kính vâng một khoảng trong lịnh vua bảo ngày trung nguyên thiết lập đạo tràng thủy lục siêu độ cho hương hồn các quan binh trận vong, dùng để giúp cho cõi âm được phước, nhân đó nhận được một bức độ điệp do bộ lễ cấp.

Sự ưu ái của ơn vua, dấu xưa vẫn còn, bèn kính sao chép, mong được thưa xin bẩm thỉnh sắc tứ cho chùa Thiên Ân. Kính nghĩ bần tăng tự lúc ở chùa thờ Phật đến nay đã trải qua nhiều năm. Nhân dân các tổng xã thôn lân cận phàm có ai bị trọng bệnh hiểm nguy, đến chùa cầu xin, may nhờ thế mà được yên lành. Điều đó ai cũng điều công nhận là linh nghiệm, phần lớn thật ra là nhờ đức tổ Thiên Phước của bần tăng tu trì từ xưa mà để ơn trạch lại.

Bèn dám cúi xin quan phủ đường đại nhân các hạ may được chuyển bẩm, giúp cho bần tăng được ơn mưa móc thấm vào, thêm sáng ngời cho chùa chiền. Muôn lần trông cậy đức vô cùng. Nay cúi đầu trình có bao các xã lân cận công nhận cùng với chư sơn ký nhận xin ghi vào sau: 

Ngày 20 tháng 6 năm Bảo Đại thứ 12 (1937) 
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu xã Phước Thuận) 
Nguyên tùng bát phẩm đội trưởng Võ Đạt ký 
Lý trưởng Nguyễn Sanh ký (có đóng dấu xã Phước Thuận) 
Miễn sai, Nguyễn Tâm thủ ký 
Phó tổng dụng Bồi Du thủ ký 
Đại hào mục Lê Đàm thủ ký 
Hương bộ Huỳnh Tri ký 
Hương bộ Nguyễn Mỹ thủ ký 
Hương kiểm Huỳnh Kim áp chỉ 
Hương mục Nguyễn Đình Tú thủ ký 
Hương thơ Nguyễn Bách thủ ký 
Chư sơn công nhận như sau: 
Hoà thượng chùa cổ tích Linh Sơn xã Hiền 
Lương hiệu Thiên Quang vái ký 
Chùa cổ tích Thiên Bữu xã Điềm Tịnh tự là Không Tang hiệu Nhơn Sanh vái ký 
Giáo thọ chùa cổ tích Long Sơn xã Phú Cang là Quảng An vái ký 
Hoà thượng xà lê chùa cổ tích Kim Ấn xã Phú Gia hiệu Vạn Phước vái ký 
Trú trì chùa cổ tích Linh Quang xã Xuân Hoà (hiệu) Vạn Trí thủ ký  
Trú trì chùa Thiền Sơn xã Trường Lộc hiệu Nhơn Hưng thủ ký 
Trú trì chùa Vạn Phước xã Cung Hoà hiệu Nhơn Thị vái ký 
Trú trì chùa Kim Long xã Phú Hoà hiệu Nhơn Duệ vái ký 
Giáo thọ chùa Linh Sơn xã Tiên Du hiệu Nhơn Hoằng thủ ký 
Trú tăng chùa Phước Long xã Phước Lý hiệu Hoằng Chất ký 
Tăng chùa Bảo Phước xã Hậu Phước hiệu Nhật Chiếu thủ ký 
Tăng trú thủ chùa Khánh Long xã Phước Đa hiệu Phổ Châu vái ký 
Tăng trú trì chùa Thiên Bữu xã Mỹ Hợp hiệu Phổ Nhãn vái ký 
Chùa Khánh Long xã Long Hoà 
Chùa Báo Ân thôn Hội Khánh 
Tổng Đồng Trung 
Tổng Thân Thượng  
Lý trưởng tổng Tu xã Phước Sơn tổng Phước Khiêm ký (có đóng dấu xã Phước Sơn) 
Lý trưởng Diệp Quang xã Vĩnh Phú ký (có đóng dấu xã Vĩnh Phú) 
Lý trưởng Ngô.. xã phú Nghĩa ký (có đóng dấu xã Phú Nghĩa)  
Phó tổng tổng Thân Thượng 
Chánh tổng tổng Phước Hà ngoại (có đóng dấu tổng Phước Hà ngoại) 
Phó tổng tổng Đồng Trung 
Quyền lý trưởng Nguyễn Vịnh xã Xuân Hoà tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu xã Xuân Hoà) 
Cửu phẩm lý trưởng Võ An xã Phượng Cương tổng Đồng Trung ký (có đóng dấu xã Phượng Cương) 
Viện đại biểu nhân dân tỉnh Khánh Hoà 
Lý trưởng Phạm Xuân thôn Mỹ Thuận tổng Ích Hạ ký (có đóng dấu xã Mỹ Thuận) 
Nguyên tùng cửu phẩm bá hộ Yết ma chùa cổ tích Thiên Ân Lâm Văn Tuất hiệu Quảng Đức thủ ký 
Người vâng lịnh chép thay thuộc xã Hiền Lương: Trần Thoả (đệ tử pháp danh Đồng Minh) vái tự ký

3. Văn kiện ngày 13 tháng 3 năm Bảo Đại thứ 15 (1940) 
 

Gồm 12 tờ giấy bổi, khổ 15 x 26.5, mỗi tờ 2 trang a và b. Giữa các trang 1b và 2a và 2b và 3a có đóng dấu giáp lai của xã Hiền Lương. Chữ viết bằng bút lông mực Tàu, nhưng trong phần phương danh những người cúng thì có chỗ viết bằng mực xanh hay mực tím của bút sắt. Chổ thị thực của chánh tổng Phạm Minh ở tờ 1b1 cũng viết bằng bút sắt mực xanh.

Trú trì chùa Sắc tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức (và giám tự ) Viên Giác của xã Hiền Lương tổng Phước Tường nội huyện Vạn Ninh vì xin báo cáo, lập lời công việc như sau: 

Điện Phật của bổn chùa đã trải nhiều năm. Nay bần tăng thấy điều đó đau lòng, khiến bèn thành tâm phát nguyện trùng tu phạm vũ. Nhưng bổn chùa không có tiền bạc của cải xuất ra. Vì thế, nay báo rõ cùng với chư sơn thiền đức cùng bổn đạo thiện nam tín nữ người hiền con Phật rộng phát lòng từ, giúp cúng tiền bạc nhiều ít, nhân đó mà sửa sang việc Phật. Bởi đó, tôi trình bày đầy đủ cho lý hào trong tổng sở tại chứng nhận sự thật, có bao nhiêu thiện tín viên chức giúp cúng, đều liệt kê phương danh vào sau đây, để ghi bảng lưu truyền. Xin chúc hiện tiền phước thọ tăng long, ngày sau cùng lên nước Phật. Nay xin có lời báo cáo. 

Ngày 13 tháng 3 năm Bảo Đại 15 (1940)  
Ngày mồng một tháng năm chứng thực: Chánh tổng Phạm Minh ký (có đóng dấu của tổng Phước Tường nội) 
Trú trì chùa Sắc Tứ Linh Sơn hiệu Quảng Đức tự ký 
Giám tự hiệu Viên Giác thủ ký. 
Bổn xã đồng ký (có đóng dấu của xã Hiền Lương) 
Sở tại lý trưởng Trần Ứng Long ký 
Chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương thủ ký 
Cửu phẩm Nguyễn Trọng Hào thủ ký 
Đại hào mục Nguyễn Công thủ ký 
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến thủ ký 
Chánh cữu phẩm đội trưởng Trần Lự cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Trú trì chùa cổ tích Khánh Long kiêm kiểm tăng các chùa huyện nhà hiệu Vạn Minh hộ niệm cúng tiền 1 đồng 
Đàn đầu hòa thượng chùa sắc tứ Linh Quang xã Đa Lạt đạo Đa Lạt tỉnh Đồng Nai thượng hiệu Nhơn Thứ giúp cúng tiền 10 đồng ký tên hiện đã giao.
Đệ tử chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn là đương dương A xà lê hiệu Nhơn Thọ hộ niệm cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Đệ tử chùa sắc tứ cổ tích Long Sơn là Hòa thượng giáo thọ hiệu Vô Vi hộ niệm cúng tiền 2 đồng hiện đã giao 
Trú trì chùa sắc tứ Di Đà là Như Ngọc vâng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao 
Đệ tử chùa sắc tứ Linh Sơn hộ trang Trần Dược pháp danh Như Quảng cúng tiền 50 đồng hiện đã giao 
Trú trì chùa Quảng Long hiệu Hoằng Thọ hộ niệm cúng tiền hai đồng hiện đã giao 
Đệ tử chùa Cổ tích Linh Sơn hiệu Viên Tịnh phụng hộ niệm 
Đệ tử chùa Cổ tích Linh Sơn Như Trung phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Đệ tử chùa cổ tích Linh Sơn Nha Trang hiệu Hoằng Đạo phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao 
Đệ tử chùa cổ tích Linh Sơn Nha Trang tự Giải Diệu phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao 
Hòa thượng chùa sắc tứ Thiên Hoà Nha Trang hiệu Chân Nguyên phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao 
Chủ chùa Sắc tứ Hải Đức tệ nạp Bích Không phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao  
Yết ma chùa sắc tứ Hội Phước Nha Trang hiệu Tín Thành phụng cúng tiền 20 đồng 
Linh Phong cổ tự Yết ma Chơn Hoà hộ niệm phụng cúng thủ ký 
Chủ chùa chùa Báo Ân ở Hoa Tu hiệu Diệu Đạo phụng cúng 2 đồng 
Chánh tổng Nguyễn Diễm xã Tân Phước phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Thủ tự chùa Long Hoà pháp danh Đồng Sanh phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện đã giao 
Chủ chùa chùa sắc tứ Di Đà xã Mỹ Đồng Võ Thị Cầm pháp danh Như Niệm phụng cúng tiền tu bổ 100 đồng hiện đã giao 
Thất phẩm Nguyễn Mưu pháp danh Trừng Mưu xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền chánh điện 300 đồng hiện đã giao 
Bùi Du xã Mỹ Đồng pháp danh Như Nhàn cùng vợ pháp danh Như Chánh phụng cúng tiền tu bổ 20 đồng hiện đã gia 
Cựu hương bộ pháp danh Như Hữu xã Phước Thủy phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao 
Lao Thị Cần pháp danh Như Mẫn xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền tu bổ 5 đồng hiện đã giao 
Pháp danh Như An thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao 
La Thị Nam phố Hội An tỉnh Quảng Nam phụng cúng tiền tu bổ 5 hào hiện đã giao 
Phan Thị Ức pháp danh Như Tánh xã Tân Đức phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao 
Lại Thị Chung pháp danh Đồng Thủy xã Phước Thuận phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao 
Phú Hội thôn đông cúng tiền 5 đồng Thân Trọng Giáp ký hiện đã giao 
Pháp danh Như Thanh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 10 đồng ký hiện đã giao 
Trần Thông xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Lê Như Đính xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Lê Phát xã Hiền Lương phụng cúng 1 đồng hiện đã giao 
Lê Lễ Nghi xã Hiền Lương phụng cúng tiền 5 hào hiện đã giao 
Phú Hội nguyện cúng tiền 10 chẵn hiện đã giao, Phạm Ngọc Quảng tự ký hiện 
Phan Quang Đức ngụ Hiền Lương phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao 
Cựu tri yển Trần Tình xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Vợ chồng Nguyễn Xôi Nguyễn Thị Hoán xã Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao 
Vợ chồng Trần Thuần xã Vinh Huề phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao 
Bà cô pháp danh Chơn Thành xã Trung Dõõng phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Võ Minh xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Hoàng Văn Khả và vợ Lê Thị Giàu xã Mỹ Tương phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao 
Võ Khắc Cần pháp danh Như Chỉnh thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Hải Nam bang Ngô Dụ Hoà và vợ Phan Thị Vạn ngụ Tân Mỹ thôn phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao 
Hải Nam bang Phù Thị Thành hiệu Chung Thị Thôi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Hải Nam bang Phan Phong Lợi phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Nguyễn Thị Tam xã Phú Cang phụng cúng 1 đồng hiện đã giao 
Nguyễn Văn Nở và vợ Nguyễn Thị Đẩu xã Đô Doanh phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Nguyễn Văn Của pháp danh Như Tài và vợ Lê Thị Diệc pháp danh Như Thừa thôn Tân Đức phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao Dương Thị Tiếu xã Phú Cang phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao  
Nguyễn Thị Muộn pháp danh Như Cảm xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 10 đồng chẵn hiện đã giao  
Nguyễn Thị Thìn pháp danh Như Hiển xã Trung Dõng phụng cúng tiền tu bổ 3 đồng hiện đã giao  
Bùi Thanh Liên ngụ xã Phú Cang phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao  
Lê Xán xã Hiền Lương phụng cúng tiền tu bổ 1 đồng hiện đã giao 
Đệ tử chùa Sắc tứ cổ tích Thiên Ân Ngô Bình pháp danh Đồng Chính phụng cúng tiền tu bổ 2 đồng hiện đã giao  
Hội viên hội Phật học xã Mỹ Trạch Ngô Cao Lâu phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao  
Hội trưởng hội Phật học đạo Đa Lạt Võ Đình Dung pháp danh Tâm Thuận phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao  
Đệ tử Nguyễn Thị Cho pháp danh Đồng Lạc đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao  
Nguyễn Thị Đắc pháp danh Đồng Quả đạo Đa Lạt phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Triều Châu bang Thái Nhâm Đông cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Tăng phụng cúng tiền 2 đồng ký hiện đã giao  
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Hạnh phụng cúng tiền 3 đồng ký hiện đã giao  
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn đệ tử pháp danh Như Thế phụng cúng tiền 3 đồng ký hiện đã giao  
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Vĩnh Điềm xã Phạm Thị Tài pháp danh Như Thắng phụng cúng tiền 20 đồng ký hiện đã giao 
Nha Trang Vĩnh Xương huyện Phương Sài thôn pháp danh Trừng Xưng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Nha Trang Trường Đông thôn Phạm Thị Đoá pháp danh Chơn Vịnh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Nha Trang Trường Tây thôn Phạm Ngọc Diễm pháp danh Chơn Dũng phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Cửu phẩm Hồ Văn Thuần thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao 
Võ Đình Dương thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Sài Cầu Phạm Quyên (cúng) tiền 1 đồng hiện đã giao 
Đệ tử pháp danh Thị Dương xã Phú Cang phụng cúng tiền 20 đồng hiện đã giao  
Đệ tử pháp danh Như Phổ thôn Khải Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao 
Đại hào mục Hoàng Cẩâm thôn Khải Lưu cúng tiền 4 đồng hiện đã giao 
Pháp danh Như Nghiêm thôn Đại Lãnh phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao ký  
Đầu vu cổ tích Khánh Long tự đệ tử Nguyễn Khắc Đính pháp danh Tâm Trung xã Tân Phước ở Tu Bông phụng cúng tiền 2 đồng tự ký hiện đã giao 
Hoàng Khiêm pháp danh Như Cung xã Long Hòa phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao  
Nguyễn Thị Miệng thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Hoàng Thị Lạc pháp danh Như Nhật thôn Hội Khánh phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao  
Huỳnh Chiêm Giảng pháp danh Như Ân xã Phong Phú phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Chánh cửu phẩm đội trưởng Nguyễn Phương xã Hiền Lương phụng cúng tiền 15 đồng hiện đã giao  
Cửu phẩm đội trưởng Lê Vận xã Hiền Lương phụng cúng tiền 6 đồng hiện đã giao  
Phó lý Lê Đê xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng ký 
Hương mục Nguyễn Du xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng có ký hiện đã giao 
Cựu hương mục Nguyễn Nhượng xã Hiền Lương phụng cúng tiền 4 đồng thủ ký hiện đã giao  
Phó hương bộ Hồ Vừa xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao  
Hương lâm Trần Minh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao  
Hương bộ Nguyễn Khánh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao  
Hương dịch Trần Đức xã Hiền Lương thủ ký phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Miễn sai hương mục Trần Hậu xã Hiền Lương phụng cúng tiền 5 đồng thủ ký hiện đã giao 
Cựu hương dịch Lê Chân xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao 
Cựu hương mục Nguyễn Hữu Thành xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao  
Cựu trùm yển Nguyễn Hữu Thạnh xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao 
Trường phu Lê Cần xã Hiền Lương cúng tiền 5 đồng thủ ký hiện đã giao 
Thiều Quang Lâm xã Lạc An cúng tiền 1 đồng 
Nguyễn Nay pháp danh Như Bình và vợ Nguyễn Thị Diệp pháp danh Như An thôn Tân Mỹ phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao  
Đặng Thị Nhẫn pháp danh Đồng Sợ xã Vinh Huề phụng cúng tiền 50 đồng, Đặng Thị Nhẫn áp chỉ hiệp giao 
Đại hào Hồ Nghị xã Hiền Lương phụng cúng tiền 3 đồng thủ ký hiện đã giao  
Tri yển Huỳnh Kiều xã Hiền Lương phụng cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao  
Phó tổng dụng Tạ Văn Khuyến phụng cúng tiền 5 đồng chẵn  
Nguyễn Phi phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao  
Hương bổn Nguyễn Cẩn phụng cúng tiền 2 đồng ký  
Hương dịch Trương Hạ phụng cúng tiền 1 đồng thủ ký hiện đã giao Hương kiểm Lê Giáp xã Hiền Lương cúng tiền 2 đồng thủ ký hiện đã giao  
Phạm Lý phụng cúng tiền 10 đồng chẵn hiện đã giao 
Phùng Hữu Phương thôn Tân Mỹ cúng tiền 2 đồng chẵn 
Cựu lý trưởng Nguyễn Ưng pháp danh Như Ngoạn xã Quảng Hội phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao 
Trần Liên xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng ký hiện đã giao Vợ chồng Đỗ Văn Tri xã Hiền Lương cùng phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao ký 
Chánh cửu phẩm đội trưởng Lý Hiệp Có xã Mỹ Đồng phụng cúng tiền 2 đồng ký  
Phó tổng dụng Hồ Lạp xã Xuân Tự phụng cúng tiền 5 đồng hiện đã giao  
Ngô Văn Hảo pháp danh Đồng Nguyện xã Hiền Lương Vạn Ninh phụng cúng tiền 5 đồng ký hiện đã giao 
Hồ Thái và vợ Hồ Thị Xuyến xã Hiền Lương phụng cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Cửu phẩm lý trưởng Nguyễn Sanh pháp danh Đồng Phóng xã Phước Thuận phụng cúng tiền 3 đồng hiện đã giao  
Trần Khổng pháp danh Đồng Ích và vợ Vũ Thị Hiên thôn Ngân Hà phụng cúng tiền 10 đồng hiện đã giao  
Cựu lý trưởng Nguyễn Tú thôn Ngân Hà cúng tiền 1 đồng hiện đã giao 
Cựu binh phiên Đoàn Thỏa thôn Bách Hà cúng tiền 2 đồng hiện đã giao 
Vũ Vạn thôn Bách Hà phụng cúng tiền 2 đồng hiện đã giao 
Linh Sơn đường thượng đệ tử Triệu Thị Hưng pháp danh Như Long phụng cúng 1 đồng hiện đã giao 
Vũ Thị Pháp pháp danh Tâm Nhuận xã Mỹ Hợp phụng cúng tiền 2 đồng hiện đ&ati
loading...