Sách Phật giáo

Ngọn đuốc Đại hùng Đại lực Đại từ bi Thích Quảng Đức soi sáng con đường đạo pháp dân tộc

Thứ bảy, 02/04/2013 09:40

Diệm - Nhu vội cử trùm mật vụ thân tín là bác sĩ Trần Kim Tuyến đến chùa Xá Lợi khám nghiệm trái tim. Bác sĩ Tuyến theo lệnh đến khám, mang theo một máy phát điện hiện đại cực mạnh để đốt, nhưng vẫn vô hiệu. Ông bác sĩ mật vụ phải phúc trình công nhận là “trái tim bất diệt”

I. NGƯỜI TỰ NGUYỆN THẮP THÂN TÂM LÀM NGỌN ĐUỐC CÚNG DƯỜNG:

Hoà thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà – nơi đây nổi tiếng nhiều gió nên gọi là xứ Tụ Phong; dân gian đọc trại thành Tu Bông, rồi có người gọi là Tu Hoa.

Năm 7 tuổi. Ngài được cậu ruột là Hoà thượng Thích Hoằng Thâm nhận làm con nuôi; từ đó đổi tên họ là Nguyễn Văn Khiết.

Năm 15 tuổi, Ngài thọ sa-di; 20 tuổi thọ Tỳ-kheo và Bồ-tát giới. Pháp danh là Thị Thuỷ, pháp tự là Hành Pháp; pháp hiệu là Quảng Đức.

Thụ giới xong, Ngài lập thất tu 3 năm trên một đồi núi ở Ninh Hoà, nơi về sau Ngài tôn tạo thành chùa Thiên Lộc. Sau đó, Ngài vân du khất thực hoá đạo trong 2 năm, trước khi về nhập thất ở chùa Thiên Ân.

Năm 1932, trong phong trào Chấn hưng Phật giáo, An Nam Phật Học hội ra đời. Ngài làm Chứng minh đạo sư cho chi hội Phật học Ninh Hoà; rồi làm Kiểm tăng của Hội Phật học tỉnh Khánh Hoà.

Sau năm 1943, Ngài vào Nam, lần lượt đi hoá đạo khắp các địa phương: Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh, Bà Rịa, Hà Tiên, Cai Lậy…và sang Pnom Pênh (Cam-pu-chia) nghiên cứu kinh điển Pāli trong 3 năm. Kế tiếp, làm Chứng minh đạo sư cho Phật hội Tịnh độ cư sĩ Việt Nam.

Năm 1953, Ngài làm Trưởng ban Nghi lễ của Giáo hội Tăng Già Nam Việt và trụ trì chùa Phước Hoà – Hội sở đầu tiên của Hội Phật học Nam Việt.

Mùa pháp nạn năm Quý Mão (hè-thu 1963), toàn thể Tăng Ni Phật tử đứng lên đấu tranh chống nguỵ quyền Ngô Đình Diệm đòi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo trong công bằng xã hội. Đó là cuộc vận động sâu rộng chưa từng có trong lịch sử Phật giáo nước nhà với mục tiêu và nội dung vì Đạo pháp và Dân tộc, mở đầu quá trình đấu tranh yêu nước và dân chủ của đồng bào Phật tử, trực tiếp ở các thành thị tham gia cùng các tầng lớp nhân dân, cho đến ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất Tổ quốc. Lúc đó, Hoà thượng Quảng Đức từ chùa Long Đoàn (núi Tà Cú, Phan Thiết) trở về chùa Quan Thế Âm (Phú Nhuận). Sau khi nghe báo bạch tình hình và xem lại các tài liệu liên quan đến cuộc đấu tranh, Ngài mỉm cười bảo: Quý Ngài Tôn túc và Tăng ni Phật tử đã làm cho cuộc vận động có khí thế rồi đó. Kẻ tham vọng chắc chắn phải nhượng bộ. Nhưng nếu họ vẫn ngoan cố, thì chính Thầy (tức Hoà thượng) phải đích thân thắp lên ngọn đuốc để cảnh tỉnh họ! Và Ngài định tỉnh nói thêm: (Sẽ) thắp ngọn đuốc ấy bằng cách tự thiêu!

 
Kế đó, Ngài làm bốn bài kệ phát nguyện: 1) Kính nguyện dâng thập phương chư Phật; 2) Dâng chư hiền thánh Tăng; 3) Cùng toàn thể tín đồ Phật giáo; 4) Xuất kệ vân, gồm 8 đoạn, 32 câu 7 chữ.

Các bài kệ có những câu:

“Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình 
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh 
Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác 
Tro trắng phẳng san hố bất bình! 
” 
Và:
“ Vì sự bất công tôi thiêu xác 
Khói hồn nguyện độ kẻ hàm oan 
Kính chúc Tăng Ni tâm dũng tiến 
Chánh pháp ngày mai phải trường tồn…”

Ngày 27/5/1963, Ngài đến chùa Ấn Quang, tác bạch với thầy Thích Thiện Hoà - Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt cùng chư Tăng và nộp “Đơn xin thiêu thân”. Trong đơn có những đoạn viết:

 Tinh thần Phật giáo đã gắn liền với tinh thần quốc gia dân tộc: Phật giáo thịnh thì quốc gia thịnh, Phật giáo suy thì quốc gia suy. Điều này lịch sử đã minh nhận.

“…Tôi tên là Nguyễn Văn Khiết, pháp danh Thị Thuỷ, pháp hiệu Quảng Đức, tu sĩ Giáo hội Tăng già Việt Nam, …xác định rằng:

1. Năm nguyện vọng tối thiểu ghi trong Bản Tuyên ngôn của Tăng Tín đồ Phật giáo là phản ảnh tinh thần chân chính của Phật giáo Việt Nam.

2. Nguyện luôn luôn son sắt bền chí với lý tưởng tranh đấu hợp tình hợp lý, bất bạo động của Phật giáo đồ Việt Nam. 
……..

Phật giáo Việt Nam bất diệt!”

Nạp đơn xong, theo hướng dẫn của Quý Tôn túc lãnh đạo Tăng già, Hoà thượng ở lại chùa Ấn Quang một tuần lễ để chờ xem tình hình: Hoặc phía Diệm Nhu chịu nhượng bộ hoặc Phật giáo phải làm thẳng tới, mà Phật giáo làm thẳng tới tức là Ngài thực hiện tự thiêu!

Ngày 4 tháng 6 năm 1963, Ngài viết thêm “Lời nguyện tâm quyết” bằng chữ Việt-Nho (chữ Nôm):

Tôi Tỳ-kheo Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận, Gia Định.

Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một tu sĩ, mệnh danh trưởng tử của Như Lai, không lẽ cứ ngồi điềm nhiên toạ thị, để cho Phật giáo tiêu vong. Nên tôi vui vẻ phát nguyện thiêu thân giả tạm này, cúng dường chư Phật, để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo.

Mong ơn mười phương chư Phật, chư đại đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau:

* Một là: Mong ơn Phật trời gia hộ cho tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam, ghi trong bản tuyên ngôn.

* Hai là: Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo  Việt Nam được trường tồn bất diệt.

* Ba là: Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức Tăng Ni Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố và bắt bớ, giam cầm của kẻ gian ác.

* Bốn là: Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, nhân dân an lạc. 
…. 
Nam Mô A Di Đà Phật”.

Ngày 20 tháng 4 Quý Mão, nhằm 11 tháng 6 năm 1963, cuộc kinh hành biểu thị ý chí đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo và thực hiện năm nguyện vọng của Phật giáo, đương thời gọi là cuộc diễu hành, của hơn một ngàn vị Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức, Tăng Ni y hậu vàng nghiêm chỉnh, đi thành hàng tư, rước di ảnh các Thánh tử đạo từ chùa Phật Bửu về chùa Xá Lợi. Đến ngã tư đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu), nhằm giờ ngọ, chiếc xe chở Hoà thượng Quảng Đức đi đầu và cả đoàn diễu hành dừng lại. Đoàn Tăng Ni nhanh chóng chuyển thành vòng tròn như một đoá sen vòng quanh ngã tư, Ngài ung dung xuống xe, trang nghiêm bước vào ngồi kiết già giữa vòng Tăng Ni; mấy lớp y hậu trên người đã được Ngài tẩm xăng sẵn ướt đẫm. Ngài mỉm cười xá chào chư Tăng Ni lần cuối cùng, rồi từ tốn lấy bật lửa ra, nhưng bật lửa bị ướt xăng. Ngài nhẹ nhàng đưa tay cầm một bật lửa khác. Phúc chốc vầng lửa bùng dậy, bốc cao như một con rồng vàng rực phủ kín thân Ngài. Ngài trang nghiêm tĩnh toạ giữa khối lửa hồng, như một pho tượng đồng đen bất động. Mười lăm phút sau, Ngài mới từ từ ngã nằm ngửa, tay vẫn kiết ấn tam muội!

Lập tức, các thanh niên tăng y hậu vàng dũng cảm nằm ngang đường, sẵn sàng ngăn xe vòi rồng và xe bọc thép. Một số Phật tử là võ sinh nhu đạo, do hai giáo sư Tâm Giác và Phạm Lợi chỉ huy, kiên cường tiếp sức án ngữ và bảo vệ, chặn cảnh sát và binh lính xông vào cướp xác! Một lá cờ Phật giáo dài 5-6 mét được trang trọng trải ra, thỉnh nhục thân Hoà thượng vào nền cờ. Rồi một số Tăng Ni cùng nắm chéo cờ rước nhục thân Ngài về chùa Xá Lợi.

Vừa vào đến chùa, một trận mưa trút xuống tầm tã, giông gió liên hồi, trời sầu đất thảm. Tất cả Tăng Ni Phật tử có mặt đều chan hoà nước mắt; tiếng than khóc, kêu gào thảm thiết, chấn động lòng người…Liền lúc đó, Diệm-Nhu cho triển khai lớp lớp dây kẽm gai và cảnh sát, binh lính lăm lăm trong tay súng ống, ma-trắc…bao vây chùa Xá Lợi, cấm ngặt ra vào!

Cả Sài Gòn-Gia Định rúng động. Bất chấp mưa gió, kẽm gai, dùi cui, súng đạn và rình rập bắt bớ. Các làn sóng đồng bào từ các hướng thành phố mạnh mẽ đổ về chùa Xá Lợi, để tỏ lòng kính ngưỡng vị thánh tăng vị pháp thiêu thân và tỏ thái độ quyết liệt phản đối chế độ Diệm-Nhu tàn bạo.

Hai tuần lễ sau, nhục thân của Hoà thượng Quảng Đức được đưa vào An dưỡng địa (Bình Chánh) để làm lễ trà tỳ. Nhân dân toàn thành phố Sài Gòn-Gia Định tôn kính, xúc động đưa tang vô cùng trọng thể. Các hương án, thể môn được trang nghiêm dựng lên ở đầu những ngõ hẻm và hai bên đường xe tang đi qua. Từ chùa Xá Lợi đến An dưỡng địa, hàng chục cây số đông chật người đứng trang nghiêm đưa tiễn Ngài.

Tại An dưỡng địa, trước sự chứng kiến của hơn 50 nhà báo quốc tế, nhục thân của Ngài thiêu từ sáng đến chiều, tới nghìn độ nhiệt, nhưng trái tim không cháy! Các ký giả giúp chạy mua thêm xăng dầu, nhưng đốt lại hai lần, trái tim vẫn vậy! Tin tức, hình ảnh về sự kỳ diệu đó nhanh chóng loan ra khắp thành phố Sài Gòn- Gia Định và truyền đi nhiều nơi trên thế giới…

Diệm-Nhu vội cử trùm mật vụ thân tín là bác sĩ Trần Kim Tuyến đến chùa Xá Lợi khám nghiệm trái tim. Bác sĩ Tuyến theo lệnh đến khám, mang theo một máy phát điện hiện đại cực mạnh để đốt, nhưng vẫn vô hiệu. Ông bác sĩ mật vụ phải phúc trình công nhận là “trái tim bất diệt”, đốt không cháy!

Với cả một quá trình chiêm nghiệm, phát nguyện kiên cố và an nhiên chuẩn bị, Hoà thượng Thích Quảng Đức đã cúng dường Tam Bảo, tận hiến cho công cuộc vận động vì Đạo pháp và Dân tộc bằng chính thân tâm mình đốt lên thành ngọn đuốc soi rõ chính-tà, xua tan bóng tối giả-ác-xú, hướng dẫn và động viên người người lớp lớp Phật tử và nhân dân vươn lên phấn đấu vì Chân lý và điều Thiện…Trước ngọn “Lửa Từ bi”, thi hào Vũ Hoàng Chương thành tâm dâng lời ca tụng:

Hai vầng sáng rưng rưng 
Đông Tây nhòa lệ ngọc 
Chắp tay đón mặt trời mới mọc 
Ánh đạo vàng phơi phới, đang hừng lên dâng lên… 
Ôi! Đích thực hôm nay trời có mặt 
Giờ là giờ hoàng đạo nguy nga 
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt 
Nhìn nhau: tình huynh đệ bao la 
Nam mô Đức Phật Di Đà 
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay? 
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ 
Người rẽ phăng đêm tối đất dày 
Bước ra, ngồi nhập định hướng về Tây 
Gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ 
Phật pháp chẳng rời tay… 
Sáu ngả luân hồi đâu đó 
Mang mang cùng nín thở 
Tiếng nấc lên ngừng nhịp bánh xe quay 
Không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió 
Người siêu thăng… Giông bão lắng từ đây 
Bóng người vượt chín tầng mây 
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ đề 
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc, 
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi! 
Chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác 
Trong vô hình sáng chói nét từ bi 
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi? 
Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát 
Với thời gian lê vết máu qua đi 
Còn mãi chứ! Còn trái tim Bồ tát 
Gội hào quang xuống tận ngục A tỳ…” 
 
“Thổn thức nghe trong lòng trái đất 
Mong thành quả phúc về Tây 
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật 
Đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt 
Tình thương hiện tháp chín tầng xây…”[1]

Bằng một Pháp điệp (Thông bạch), Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết - Hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, kính ngưỡng suy tôn Ngài ngôi vị Bồ tát. Hồng danh “Nam mô Đại hùng Đại lực Quảng Đức Bồ tát” khởi đầu từ đó.

Chủ Tịch Hồ Chí Minh, ngày 11.06.1063 và ngay sau đó, đã cho trang trọng công bố trên đài phát thanh và báo chí từ Hà Nội đôi câu đối kính viếng, thể hiện tấm lòng của Người và của đồng bào cả nước đối với Hòa Thượng Thích Quảng Đức:

“Vị pháp thiêu thân vạn cổ hùng uy thiên nhật nguyệt 
Lưu danh bất tử bách niên chánh khí địa sơn hà” 
(Xin phụng dịch:  
“Vị pháp thiêu thân, muôn thuở hùng uy trời nhật nguyệt 
Lưu danh bất tử, trăm năm chính khí đất sơn hà”)

Đại nguyện và hành động cúng dường của Hòa Thượng Thích Quảng Đức không những là công đức to lớn đối với Phật giáo mà đồng thời là một đóng góp cao quý, sâu sắc vào đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc.

II. ÁNH SÁNG NGỌN ĐUỐC THÍCH QUẢNG ĐỨC TRÊN CON ĐƯỜNG PHỤNG SỰ ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC:

Bản chất và sức phát huy của ngọn đuốc Thích Quảng Đức là đại hùng, đại lực, đại từ bi.

1. Ông Vũ Văn Mẫu - Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Ngô Đình Diệm, nhận xét: “Ngọn lửa Bồ tát quả có hiệu lực soi sáng tâm hồn Tổng thống Ngô Đình Diệm”[2], dù chỉ với cá nhân ông và trong chốc lát. Một tuần lễ sau, với sự cho phép của ông Diệm, phái đoàn chính phủ Sài Gòn do Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ cầm đầu, đã chịu ký kết bản Thông cáo chung chấp thuận giải quyết 5 nguyện vọng của Phật giáo, mặc dù, như ai cũng biết, cả Ngô Đình Thục, vợ chồng Nhu - Lệ Xuân và bản thân ông Diệm đều không những không thi hành điều đã ký kết mà còn leo thang những luận điệu và hành động mạ lỵ, khủng bố Phật giáo.

Ông Bùi Diễm, người làm ngoại giao chuyên nghiệp cho Ngô Đình Diệm và các chính phủ Sài Gòn kế tiếp, xác nhận: “Cử chỉ hy sinh của nhà tu hành Thích Quảng Đức phản đối chính sách đàn áp của chính phủ Diệm làm chấn động dư luận trong và ngoài nước, đẩy cuộc xung đột vào giai đoạn quyết liệt”[3]. Từ đó dẫn đến tình trạng “Phật tử căm giận, thế giới xúc động”, làm cho “Dương Văn Minh, Lê Văn Kim và tôi (Trần Văn Đôn) quyết định đáp lại ý muốn của toàn dân, và tôi nghĩ đó cũng là ý muốn của đa số quân nhân… Chúng tôi thảo kế hoạch đảo chính”[4], như ông Trần Văn Đôn, viên trung tướng từng được Ngô Đình Diệm tin cẩn, kể lại trong hồi ký “Việt Nam nhân chứng” của mình.

Về phía Mỹ, “ngay sau ngày Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu,… cả thế giới bị sốc, Tổng thống J.F.Kennedy cũng vậy”. “…Chỉ qua một đêm, cả thế giới nhận ra Mỹ… đã chọn đúng một bạo chúa để hà hơi tiếp sức”. “… Chỉ riêng vụ tự thiêu ngày 11 tháng 6 này thôi đã gây cho J.F.Kennedy nhiều rắc rối nhất kể từ vụ khủng hoảng tên lửa Cuba; vì vậy ông cũng quyết sửa chữa”[5].

Lịch sử đã chỉ ra sự gặp gỡ giữa việc “thảo kế hoạch đảo chính” của nhóm tướng lĩnh Sài Gòn từng được Ngô Đình Diệm tin cậy và ý tưởng “cương quyết sửa chữa” của Tổng Thống Mỹ Kennedy sau ngày 11- 1 – 1963, thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: “Đảo chính ở Sài Gòn, dù là do Hoa Kỳ gợi ý, vẫn là một bước tiến trên hướng tốt”[6]. Ở đây, ảnh hưởng và nguồn lực thúc đẩy của ngọn lửa Quảng Đức rõ ràng là hết sức to lớn và trực tiếp.

2. Tất nhiên, một cách chân thật và khách quan, lịch sử cũng tính đến những yếu tố tác động góp phần quyết định khác, như của công cuộc đồng khởi bắt đầu từ Bến Tre, của chiến thắng chiến thuật trực thăng vận mở đầu với trận Ấp Bắc, của cái gọi là “quốc sách Ấp chiến lược” bị phá banh từng mảng lớn, và trực tiếp của phong trào nhân dân các thành thị và vùng tạm chiếm dưới ngọn cờ Phật giáo, với đông đảo quần chúng Phật tử tham gia, trực diện tấn công chế độ Diệm-Nhu dưới nhiều hình thức…

Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ vĩ đại và lâu bền, sâu sắc và quyết liệt ở miền Nam trước đây, nhân dân ta đã chiến thắng trận đầu chiến lược, đánh sập chính quyền và quân đội Sài Gòn, làm phá sản chiến tranh đặc biệt. Chính trên nền tảng thắng lợi trận đầu chiến lược đó mà nhân dân ta chủ động đoàn kết xông lên đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, “đuổi Mỹ lật ngụy”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành hòa bình thống nhất Tổ quốc.  Trong trận đầu làm thất bại chiến lược chiến tranh đặc biệt, việc đánh đổ lực lượng tay sai phản động Ngô Đình Diệm có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng, tác động tích cực đến cả quá trình chống Mỹ cứu nước. Ngày nay, kinh qua và trải nghiệm lịch sử, những công dân và Phật tử Việt Nam trung thực có điều kiện để nhận rõ: Con đường đấu tranh giải phóng Đất nước khỏi ách thực dân đế quốc, thực hiện độc lập hòa bình thống nhất Tổ quốc, tiến tới thiết lập và kiện toàn chế độ dân chủ, phát triển xã hội công bằng văn minh, tiến bộ ngang tầm thời đại là đạo lý và chính nghĩa của dân tộc, là vận mệnh không thể cưỡng lại được, không chỉ là nguyện vọng và công tích của riêng lực lượng dân tộc nào và không thuộc về riêng ai. Sự minh bạch và lợi ích khách quan của bài học lịch sử đòi hỏi nhận định và phân tích đúng đắn vai trò của ngọn lửa Quảng Đức nói riêng và của cuộc vận động liên tục vì Đạo pháp và Dân tộc, thực chất là phong trào đấu tranh dân chủ và yêu nước, của đồng bào Phật tử ở các thành thị nói chung đóng góp vào cuộc vận động dân tộc dân chủ rộng lớn của toàn dân miền Nam và của cả dân tộc.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc ta là từ đoàn kết-đại đoàn kết đưa tới thành công-đại thành công. Phong trào đấu tranh của Phật giáo chúng ta, mà công lực và ánh sáng của ngọn lửa Thích Quảng Đức tiêu biểu, xứng đáng là một dòng mạnh mẽ trong đại hợp lưu của công cuộc đoàn kết vận động vĩ đại vì yêu nước, dân chủ và tiến bộ xã hội của dân tộc!

Ở đây, chúng ta nhớ lại một câu chuyện về Hòa thượng Quảng Đức mà Hòa thượng Thiện Hào, nguyên Ủy viên Đoàn Chủ Tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, là nhân chứng trong cuộc. Hòa thượng Thiện Hào thường nhắc kỷ niệm về đêm nghỉ lại, đàm đạo suốt sáng và bữa cơm đưa tiễn thắm thiết tình Đạo nghĩa Nước sớm hôm sau với Hòa thượng Quảng Đức ở chùa Thiên Phước, Cai Lậy (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), giữa năm 1960, ngày Hòa thượng Thiện Hào bắt đầu thoát ly ra chiến khu Đồng Tháp Mười rồi lên căn cứ Trung Ương Cách mạng miền Nam. Năm 1963, từ chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh), khi được tin Hòa thượng Quảng Đức dũng cảm tự thiêu vì đại nghĩa, Hòa thượng Thiện Hào đã khóc và nhuốm bệnh nhiều ngày. Hoà Thượng Thiện Hào nghẹn ngào kể với các vị ở cơ quan thường trực Ủy ban TW Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam: “Nhớ lời Hòa thượng (HT.Quảng Đức) dặn: Thầy (HT.Thiện Hào) vô trong lo việc lớn, tôi ở ngoài này xin đóng góp sức nhỏ nhoi của mình. Hòa Thượng nói mình chỉ ‘góp sức nhỏ nhoi’ mà việc làm của Hòa thượng thật là vĩ đại…”[7].

Trong “Lời nguyện tâm quyết” trước khi tự thiêu, Hòa thượng Quảng Đức cũng nêu rõ bốn điều chí nguyện, mà Điều bốn là: “Cầu nguyện cho Đất nước thanh bình, nhân dân an lạc”.

3.Về Đạo pháp, suốt đời Hòa thượng Quảng Đức tinh cần, mẫu mực cả mấy phương diện: tu học, hoằng hóa, trưởng dưỡng Tăng đoàn, tu tạo tự viện, phương tiện độ sanh và bảo vệ Phật giáo… Bình sinh, Ngài tu theo kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, bao gồm nhiều pháp tu của Mật, Thiền và Tịnh Độ. Trước ngày tự thiêu, tại chùa Ấn Quang, Ngài đã trì tụng một tuần lễ trọn bộ kinh Pháp Hoa. Ngài luôn giữ đúng các thời công phu khi mờ sáng, hành thiền và tu luyện lúc giữa khuya. Trong nửa thế kỷ hành đạo, Ngài đã tôn tạo 31 ngôi chùa ở Nam Trung bộ, Nam bộ và Căm-pu-chia; ngôi cuối cùng nay là Tổ đình Quán Thế Âm, quận Phú Nhuận, TP.Hồ Chí Minh. Ngài đã dìu dắt trên 200 môn đệ xuất gia “truyền đăng tục diệm”. Liên tục đảm nhận các vai trò trụ trì, chứng minh đạo sư, kiểm Tăng, trưởng ban Nghi lễ…được Tăng Ni Phật tử giao phó, ở đâu lúc nào Ngài cũng tận tụy chu toàn Phật sự. Luôn gần gũi hàng Phật tử tại gia, thương yêu gắn bó với quần chúng lao khổ, Ngài hỷ xả thực hành các pháp phương tiện độ sinh, như làm chủ sám trai đàn chẩn tế, siêu độ chư linh; chữa bệnh cứu người bằng thuốc nam và y học cổ truyền… Ngài quý trọng, chăm lo sự sống, thương xót cả sự sống của côn trùng, thảo mộc… Ngài không đành nhìn cỏ cây, hoa kiểng khô héo dưới nắng gắt, thường lo tưới xong mới dùng cơm và dạy các đệ tử: “Dù cây là vô tri vô giác, nhưng nó cũng có tánh sống”. Ngài đã với tâm từ bi vô lượng như thế mà phát nguyện tự thiêu thân cúng dường chư Phật, cũng chính là để hồi hướng công đức cứu độ chúng sinh, như Ngài viết trong bài kệ:

Thân cháy nát tan ra tro trắng, 
Thần thức nương về giúp sinh linh”.

III. NGUYỆN KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NGỌN ĐUỐC THÍCH QUẢNG ĐỨC:

Phấn đấu thực hiện vai trò Phật giáo là “đạo nhà”, là tín ngưỡng tâm linh căn bản của dân tộc:

Hòa Thượng Quảng Đức viết:

Thân tôi dù cháy linh thiêng máu 
Thần thức tôi luôn giúp đạo nhà”

“Đạo nhà” đây là tín ngưỡng tâm linh căn bản, là đạo lý sống của dân tộc. Ở nước ta, đạo nhà là thờ Tổ tiên và thờ Phật. Đạo Phật ở Việt Nam đã hội nhập và hòa hợp nhuần nhuyễn với đạo thờ Tổ tiên, thống nhất sâu sắc với những giá trị tinh thần tốt đẹp của Việt Nam và đã trở thành đạo Phật dân tộc. (Tôn giáo dân tộc, về thực chất, có mặt khác với tôn giáo nhà nước, “quốc đạo”).

Trong lịch sử, đã có những giai đoạn đạo Phật được sùng bái, đề cao, trở thành lực lượng tinh thần chủ yếu chi phối và chỉ đạo xã hội như vào các triều đại Lý-Trần; hay được triều đình chính thức bảo trợ như dưới thời một số Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Lịch sử đã chứng thực sự đóng góp của Phật giáo vào nền thịnh trị hùng cường và an lạc của các giai đoạn lịch sử ấy như thế nào. Thế nhưng, đến thời Lê mạt và các triều vua Nguyễn, nhất là dưới ách thống trị của thực dân Pháp gần một thế kỷ, cũng như nhiều tinh hoa và giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp khác của dân tộc, đạo Phật đã bị hủ hóa, suy thoái, thậm chí trộn lẫn với mê tín, lai tạp về lòng tin và dung tục về hành đạo. Thực dân Pháp (và tay sai), cũng như các thế lực thực dân đế quốc xâm lược thống trị khác, thi hành âm mưu thủ đoạn thâm độc là đánh phá, đàn áp và nô dịch về văn hóa tinh thần, đặc biệt về văn hóa tâm linh, để làm phôi pha, xóa bỏ bản chất, bản sắc và cội nguồn của dân tộc bản địa. Chính sách xâm lược và nô dịch về văn hóa là những khâu mở đầu, thường xuyên và kết cục, phối hợp chặt chẽ và bảo đảm cho chính sách xâm lược, nô dịch về quân sự và chính trị. Thực dân Pháp và tay sai coi thờ Phật cũng như thờ Tổ tiên, “đạo Phật và đạo Ông Bà”, chỉ là tín ngưỡng cúng bái cổ truyền, thuộc về văn hóa phong tục dân gian, và như thế cũng không phân biệt rõ ràng với mê tín dị đoan. Họ chỉ duy nhất thừa nhận đạo Công giáo (dân gian trước đây thường gọi là đạo Thiên Chúa hay đạo Gia-tô) và rộng ra, các đạo thờ đức Chúa Trời Ba Ngôi, là tôn giáo. (Ở đây, “tôn giáo” được họ nhìn nhận như là “tín ngưỡng tâm linh và thờ phượng chân chính”). Đã có những định nghĩa kinh viện chính thức yêu cầu đặt yếu tố đầu tiên và bắt buộc để được công nhận tôn giáo là phải có “đấng chủ tể sáng tạo”, chí ít có thần linh siêu nghiệm với thần quyền tuyệt đối. Tất nhiên, điều đó hoàn toàn xa lạ với tín ngưỡng tâm linh Phật giáo và cả với đạo thờ Tổ tiên. Thần thánh, cho đến cả “ông Trời”, của đạo thờ Tổ không phải là “đấng chủ tể sáng tạo” của các loại Nhất thần giáo, của thần quyền mê tín và nô lệ hóa con người. Còn đối với đạo Phật, “các loài trời” (chư thiên) cũng chỉ là một loại chúng sanh chưa thoát khỏi sáu nẻo luân hồi.

Khi Phật giáo đã không được coi là tôn giáo, thì tất nhiên tổ chức giáo hội của Phật giáo (mặc dù đã có một phần thích nghi mà ít nhiều bắt chước tổ chức và giáo quyền của phương Tây) cũng không được coi là giáo hội của tôn giáo, mà chỉ như là những hiệp hội, hội ái hữu, những hội đoàn xã hội khác…, thậm chí cụ thể như hội đồng hương, hội xe kéo, hội bóng đá v.v…

Mặt khác, cái “lô-gích mất nước thì mất chùa và bàn thờ Tổ tiên bị lật đổ” đã trở thành số phận hiện thực đau buồn ở nhiều nơi của Phật giáo và của cả dân tộc. Đi ngược lại ý muốn của mọi tín đồ thờ Chúa lương thiện và chân thật, thực dân Pháp và tay sai đã ngang ngược đập bỏ chùa, tháp Báo Thiên-đại khí trấn quốc ở Thăng Long và chùa Khải Tường, chùa Cây Mai ở Gia Định…, cũng như sau này đặt mìn phá hoại chùa Một Cột (Diên Hựu) ở Hà Nội khi phải rút chạy khỏi miền Bắc nước ta sau thảm bại ở Điện Biên Phủ. Và ai cũng thấy, cái đuôi của âm mưu thủ đoạn, thuộc về bản chất và truyền kiếp, ấy chính là chính sách kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật giáo của anh em nhà họ Ngô!

Ngày nay, Đất nước đã hoàn toàn độc lập và hòa bình thống nhất. Đường lối văn hóa của chúng ta là bảo tồn phát huy tinh hoa, băn sắc văn hóa quý báu của dân tộc và trên cơ sở đó, lựa chọn tiếp thu những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiên tiến của nhân loại. Chúng ta phải làm rõ và khẳng định vai trò của đạo nhà, của tín ngưỡng, đạo lý thờ Phật và thờ Tổ trong đời sống văn hóa tâm linh và tôn giáo của toàn dân tộc và xã hội.

Cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng tôn giáo gồm hai mặt, như hai vế ghép lại thành một cơ chế: “tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Lương bao gồm thờ Tổ và thờ Phật, rộng hơn là thờ Tam giáo. Thờ Tổ và thờ Phật là bản chất cội nguồn và truyền thống của đời sống tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa tâm linh dân tộc. Lương chiếm đại bộ phận nhân dân. Yếu tố bao gồm thờ Tổ, thờ Phật của đa số nhân dân ấy là trung tâm, là hạt nhân của quan hệ lương giáo. Đó là lập trường quan điểm và chỗ dựa căn bản của dân tộc ta, nhân dân ta trong lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo. Từ đó mà có thái độ và đường lối chính sách đúng đắn đối với đạo thờ Tổ tiên và với đạo Phật dân tộc. Và ở nước ta, đạo Phật dân tộc bao hàm cả đạo thờ Tổ tiên.

Với vai trò lãnh đạo Đất nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã họp toàn thể Ban Chấp hành Trung ương quyết định: Đề cao tín ngưỡng tôn giáo dân tộc, bảo hộ thờ cúng Tổ tiên[8]. Lập trường quan điểm và chính sách đó rất căn bản và kịp thời; thật là hồng phúc cho Dân tộc và Đạo pháp.

2. Con đường trưởng dưỡng đạo tâm, kiên cố đạo lực, trang nghiêm và hòa hợp Tăng già, sách tấn tứ chúng, cải thiện và tăng cường phương tiện độ sinh:

Thấm nhuần lý duyên sinh, Phật giáo nhất thiết không tranh chiếm địa vị độc tôn. Nhưng để đảm đương vai trò trách nhiệm đối với Đạo pháp, Dân tộc và nhân sinh, giải pháp nên là: Toàn thể Tăng Ni Phật t

loading...