Sách Phật giáo
Chí nguyện người xuất trần thượng sĩ (P.1)
Thứ hai, 13/06/2017 05:27
Người xuất gia tuy không còn gây dựng hạnh phúc lứa đôi, không còn phải bận bịu việc vợ chồng, con cái, nhưng vẫn phải đương đầu với vấn đề tham luyến ái dục, vì người xuất gia đi ngược lại dòng đời, nên phải dùng tuệ giác thấy biết đúng như thật để chuyển hóa ái dục.
Phật dạy, người xuất gia phải ý thức việc thoát ly sinh tử, mà cố gắng thực tập vững chãi các điều giới luật và oai nghi. Ta đừng để xảy ra sự chung đụng trái phép. Ta cũng đừng nên tự phụ quá đáng là mình đã giỏi, không cần quan tâm tới những chi tiết nhỏ nhặt của giới luật lẫn oai nghi. Vì vậy, chúng ta cần phải phát đại thệ nguyện giống như đức Phật khi xưa dưới cội Bồ đề: “Ta dù thịt nát, xương tan, nếu không thành tựu đạo vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, quyết không rời khỏi chỗ này”.
Ai muốn xa lìa ái dục cũng phải như thế, phải có ý thức, phải có mục đích cao cả là lý tưởng giác ngộ giải thoát. Ta phải luôn thường xuyên quán chiếu, xem xét, để thấy rõ ràng những hệ lụy khổ đau do si mê, luyến ái sắc dục đem lại. Ai vướng vào sắc dục rồi, giống như con tằm làm kén tự quấn lấy mình, giống như con cá bị mắc vào lưới, càng vùng vẫy càng bị lưới siết chặt, cũng như người khát nước mà uống nước muối, càng uống càng khát. Ái dục cũng lại như thế.
Vì vậy, chiếc rễ đầu tiên của người tu là phải có niềm tin, niềm tin này không phải là tin vào một đấng thần linh, thượng đế, có khả năng ban phước, giáng họa, hay tin vào một người khác. Nếu ta tin vào một đấng thần linh mà ta không biết đích thực thần linh đó là ai, thì rất nguy hiểm cho ta sau này. Niềm tin đó không phải là chiếc rễ vững chắc, xứng đáng cho ta nương tựa. Ta phải tin vào một cái gì vững chắc và lâu dài hơn.
Vậy niềm tin đó là gì? Trước nhất, ta phải tin Tam Bảo, tức tin vào Phật, Pháp và Tăng. Phật là một con người giác ngộ, có tình thương yêu bình đẳng bằng trái tim hiểu biết, có trí tuệ, có từ bi với tất cả muôn loài chúng sinh. Vì thế, chúng ta gọi là Phật bảo. Ta phải tin rằng, nếu ta thực tập những lời dạy chân chính đó, ta sẽ mở rộng được sự hiểu biết, yêu thương, để tiếp nhận bình an, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Ta phải tin chính mình có Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, không lầm lẫn; tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Nếu ai không có niềm tin đó thì không bao giờ có đủ khả năng, để trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh.
Ta phải tin chính mình có Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, không lầm lẫn; tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế. Nếu ai không có niềm tin đó thì không bao giờ có đủ khả năng, để trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh.
Nếu con người có khả năng yêu thương bằng trái tim hiểu biết, sẽ dễ dàng tiếp nhận bình an, hạnh phúc thật sự ở cõi lòng, mà không hề có sự van xin, cầu cạnh từ bên ngoài. Niềm tin này không phải là sự mê tín, mà là niềm tin bằng sự giác ngộ do trí tuệ khai mở. Ta thấy trong mình có khả năng mở rộng sự hiểu biết, làm lớn thêm thương yêu, chuyển hóa tất cả mọi khổ đau và tạo dựng một đời sống bình yên, hạnh phúc. Đó là ta tin vào tính biết sáng suốt trong mỗi con người chúng ta.
Niềm tin này không phải là niềm tin mù quáng bằng lý thuyết suông, mà là một thực tại nhiệm mầu, có sự quán chiếu, xem xét rõ ràng. Nhờ vậy, ta thấy ai có hiểu biết, có yêu thương, có trí tuệ, có từ bi và làm lợi ích cho nhiều người, mà không bao giờ tính toán, so đo, thì ta biết người đó có bình yên và hạnh phúc thật sự.
Niềm tin của ta được trải nghiệm qua cuộc sống thực tế bằng cách tu học và dấn thân, chứ không phải ngồi không mà hưởng nhàn với quan niệm “mình là thầy thiên hạ”. Khi ta có ý chí, có niềm tin, có lý tưởng vì lợi ích tha nhân bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì ta sẽ có đủ sức mạnh để đi tới cho đến khi đạt được chí nguyện mới thôi.
Lời nguyện chân chính luôn giúp ta đem lại rất nhiều năng lượng có ích, để ta không thất chí nản lòng, mà vững niêm tin hơn mỗi khi gặp chuyện không như ý. Người tu là người có chí nguyện cao cả vì lợi ích cho chính mình, và tất cả chúng sinh. Đó là tâm bồ đề kiên cố của những con người đi theo con đường hiểu biết và thương yêu để được chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
Ta phải sống làm sao để chí nguyện của mình ngày thêm lớn mạnh, vững vàng. Ta càng lớn tuổi thì chí nguyện của ta càng bền bỉ, chắc thật, không bị mọi thế lực bên ngoài làm suy giảm. Nếu chí nguyện của ta bị lung lay bởi những danh vọng, lợi dưỡng, sắc đẹp, tiếng tăm chi phối, thì ta sẽ không thành công trên con đường tu tập mà có khi bỏ cuộc nửa chừng. Ta phải giữ vững ý chí, lập trường, theo đuổi chí nguyện không một giây phút lơ là trong hiện tại, và phải biết sử dụng những giây phút đó mà làm tròn ước nguyện của mình.
Thế gian này là một dòng đời nghiệt ngã với vô vàn đau khổ, bởi do ta tham đắm, luyến ái, thương tiếc, nhớ nhung vì yêu thương, xa lìa mà khổ; oán ghét mà gặp nhau cũng khổ, nên ta tu để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Ta học hỏi Phật pháp và tu tập, để giúp mọi người cùng sống có yêu thương bằng trái tim hiểu biết.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet) |
Tâm nguyện hay chí nguyện là một nguồn năng lượng rất lớn, không thể thiếu. Không có tâm nguyện, ta khó bề vượt qua cạm bẫy cuộc đời, bởi sự hấp dẫn của lợi dưỡng, danh vọng, sắc đẹp và sự cung kính. Ta hãy nên tự hỏi rằng: “Mình có đủ sức mạnh và nguồn năng lượng đó hay chưa?”. Nếu chưa đủ, ta vẫn phải thường xuyên quán chiếu, xem xét từng ý nghĩ, lời nói và hành động; bằng không, chỉ cần một ngọn gió thổi tới, mình sẽ ngã quỵ như thường.
Vậy chí nguyện của ta là gì? Ta có thật sự muốn đạt được những chí nguyện đó hay không? Nếu ta thật sự muốn hoàn thành chí nguyện lớn lao và cao cả đó, thì tại sao ta cứ dễ buông trôi theo ngày tháng?
Vậy chí nguyện của ta là gì? Ta có thật sự muốn đạt được những chí nguyện đó hay không? Nếu ta thật sự muốn hoàn thành chí nguyện lớn lao và cao cả đó, thì tại sao ta cứ dễ buông trôi theo ngày tháng?
Ái dục như những gông cùm, xiềng xích, luôn khóa chặt lấy con người chúng ta. Những cái gông, những chiếc xích này, các bậc hiền Thánh thấy rằng, chúng còn nguy hiểm và kiên cố hơn cả những người bị phạm tội nhốt trong lao tù. Vì bị tù đày còn có ngày ra khỏi, còn dính mắc vào vòng luẩn quẩn của vợ con, quyến thuộc và tình cảm luyến ái, thì biết chừng nào mới thoát ra được.
Khi một ai đó đã bị giam cầm bởi sắc đẹp, tiền tài, danh vọng thì bao nhiêu ý chí, nghị lực, khí phách, đều bị tiêu tán hết. Chí nguyện cao cả ban đầu cũng bị mai một đi bởi si mê, ham muốn ái tình. Do đó, con đường giác ngộ giải thoát của ta cũng không thể nào đủ khả năng tiếp tục đi nữa.
Ta không dám nghĩ, ta không dám làm, vì nếu ta nghĩ, ta làm, thì ta sợ sẽ ảnh hưởng tới gia đình, người thân. Lúc đó, ta chẳng khác nào như đang bị còng tay và bó giò, bị trói chặt bởi những cái gông, sợi xích luyến ái, còn vững chắc hơn cả những cái gông bằng đồng, bằng sắt. Chính vì vậy, những người làm cách mạng thường sống độc thân để hoạt động, vì khi sống độc thân, họ có can đảm nói và làm những điều họ cho là đúng để đem lại tự do, hòa bình và an vui cho đất nước.
Cuộc sống độc lập, tự do hạnh phúc sẽ cho phép họ sống thực sự là một người biết hy sinh vì lý tưởng cách mạng, tự do làm việc vì lợi ích chung mà không bị vướng bận bởi luyến ái vợ chồng, con cái cùng tình cảm riêng tư của gia đình, người thân.
Tôn giả Nan Đà là em cùng cha khác mẹ với Phật. Vào ngày thành hôn của ngài, vì thần lực của Phật quá mạnh, ngài bị nhiếp phục nên đã xuất gia ngay trong ngày đó. Phật xuất hiện đúng lúc ấy, nhờ người em Nan Đà cầm hộ bình bát, cứ như thế Phật đi về Tịnh xá. Vì thương yêu, tôn kính Phật, nên Nan Đà không dám nói gì, chỉ một bề lặng lẽ quảy bước theo sau. Người vợ yêu quý hối hả chạy theo, mặt đầm đìa nước mắt, gọi với theo trong vô vọng: “Hỡi hoàng tử yêu quý của em, hãy mau quay trở về, không có anh chắc em sẽ chết mất, hỡi anh yêu dấu”.
Về đến Tịnh xá, Phật hỏi Nan Đà: “Em thích xuất gia sống đời thánh thiện không?”. Nan Đà đồng ý. Xuất gia được mấy bữa, tôn giả nhớ người vợ yêu quý của mình quá mức, không thể nào chịu nổi nữa, nên tôn giả liền đến gặp Phật thú thật, xin được hoàn tục. Biết em của mình luyến ái nặng nề, khó lòng thôi dứt, Phật dùng thần lực hiện ra vô số các tiên nữ xinh đẹp, kiều diễm, rồi quay sang hỏi Nan Đà: “Các tiên nữ này có đẹp hơn người yêu dấu của em hay không?”
Tôn giả nói: “Thật là xinh đẹp hơn rất nhiều Phật ạ”. Đánh trúng tâm lý háo sắc của đứa em, Phật mới chỉ một cung điện nguy nga, tráng lệ có rất nhiều tiên nữ. Con tim Nan Đà bắt đầu thổn thức, rung động, nên mới bước đến hỏi các nàng: “Cung điện này của ai mà đẹp đẽ sáng ngời, oai phong lẫm liệt như vậy?”. Các tiên nữ đồng thanh trả lời: “Cung điện này dành riêng cho Tôn giả Nan Đà dưới trần gian. Sau khi đắc đạo, người sẽ về đây cai quản và vui chơi hưởng thụ khoái lạc với 500 tiên nữ chúng em”.
Nhờ vậy, Nan Đà không còn nhớ người yêu bé nhỏ của mình ngày nào nữa, mà cố gắng tu tập cho được viên mãn, để sớm có chiếc vé đoàn tụ với các em tiên nữ xinh tươi.
Rồi một lần khác, Phật dùng thần lực để cho Nan Đà đi xuống cõi địa ngục. Tôn giả thấy vô số người bị hành hình trông rất thảm thương. Ngài đi ngang qua một chảo dầu to tướng, đang sôi ngùn ngụt, nhưng không có ai bị hành hình trong đó. Tôn giả mới ngạc nhiên hỏi chúa ngục: “Cái chảo này làm gì mà để nước sôi ngùn ngụt đến thế vậy?”.
Chúa ngục mới nói: “Cái chảo này chỉ dành riêng cho Tôn giả Nan Đà, đệ tử Phật. Sau khi hưởng hết phước ở cõi trời với 500 tiên nữ, sẽ bị đọa xuống đây để chịu tội vô số kiếp không có ngày ra, vì mục đích tu hành của Nan Đà là để hưởng thụ khoái lạc, sắc đẹp, tình dục”. Nghe chúa ngục nói thế, tôn giả sợ quá bèn đến gặp Phật xin sám hối và nhờ Phật chỉ dạy phương pháp rốt ráo thoát ly sinh tử. Kể từ đó, tôn giả siêng năng, tinh cần tu tập; nhờ vậy, không bao lâu, ngài chứng được quả giác ngộ giải thoát.
Bây giờ, chúng ta thử quay lại cuộc đời của Thái tử Sĩ Đạt Ta chuyển hóa ái dục như thế nào? Theo sử liệu của Phật giáo Bắc tông, thái tử đi tu năm 19 tuổi, 5 năm học đạo với hai vị thiền sư nổi tiếng, sáu năm tự tu khổ hạnh, thành đạo dưới cội Bồ đề, bốn mươi chín năm hoằng pháp độ sinh. Theo sử liệu Phật giáo Nam Tông, thái tử đi tu năm 29 tuổi, học đạo 6 năm và hoằng pháp suốt 45 năm.
Chúng ta thử lấy sử liệu Bắc tông làm y cứ. Thái tử đi tu khi mới 19 tuổi, bỏ lại đứa con trai đầu lòng và người đẹp hoa khôi xứ Ấn. Ở tuổi đời này, con người mạnh khỏe, tinh thần sáng suốt, có thể làm cho trời nghiêng, đất ngã, lại đang thừa hưởng một địa vị cao nhất thế gian là chuẩn bị làm vua. Đêm hôm đó, trước khi ra đi, thái tử quay lại phòng nhìn vợ con lần cuối, với tâm trạng thương tiếc, nhớ nhung thật sự, mặc dù trong lòng đã quyết định dứt khoát ra đi để tìm cầu chân lý.
Động cơ nào khiến thái tử đủ sức mạnh để bỏ hết tất cả, vợ đẹp con xinh, tiền tài danh vọng, thần dân thiên hạ và quyền hành cao nhất. Thái tử còn quá trẻ, nên năng lượng tình dục rất mạnh. Chính vì vậy, công chúa Da Du Đà La mới sinh cho chàng một đứa con trai bụ bẫm, kháu khỉnh, giống cha như khuôn đúc.
Như chúng ta đã biết, Thái tử là con người bằng xương, bằng thịt như mọi người, đâu có bệnh hoạn gì mà nỡ đang tâm đành đoạn bỏ đi, trong khi chàng và nàng đang trong giai đoạn yêu thương cực kỳ mặn nồng, tha thiết nhất. Ở lứa tuổi mà con người hưng phấn, sung mãn nhất về tình dục, vậy mà thái tử vẫn quyết tâm bỏ lại sau lưng hết tất cả, tuy rằng trong lòng vẫn còn luyến tiếc, nhớ thương.
Nhiều chàng thanh niên ước ao rằng, chỉ cần được ngủ một đêm với các người mẫu hay hoa hậu thôi, sáng mai dù có bị xử bắn cũng vẫn vui vẻ chấp nhận, bằng lòng. Con người ta ai cũng khát khao, thèm muốn tình dục, đây là một sự thật mà không một ai có thể chối bỏ được. Thế gian này, sở dĩ mọi người ra sức nỗ lực làm việc nhọc nhằn, vất vả, bất kể ngày đêm, cũng đều muốn có được tiền tài, danh vọng, vợ đẹp, con ngoan, ăn ngon mặc đẹp và ngủ nhiều. Đó là ước mơ chung của nhân loại, ít ai có thể đi ngược lại lòng ham muốn, luyến ái ấy.
Vậy mà Thái tử Sĩ Đạt Ta đã dũng mãnh, can đảm chấp nhận đau thương, dám hy sinh tình cảm cá nhân, để ra đi tìm cầu chân lý sáng ngời cho nhân loại. Luyến ái, ham muốn khoái lạc tình dục, một khi ai có cơ hội gần gũi nó rồi, thì khó lòng lìa bỏ được; như bản thân chúng tôi chẳng hạn, tôi sống ngu, chết dở, cũng vì nó. Năm nay tôi đã 53 tuổi, vậy mà trong lòng vẫn còn thèm khát thứ đó. Nó là cái gì mà làm cho cả thế giới loài người phải điêu đứng, vọng động, điên đảo, tranh hơn, tranh thua, để có được chút xíu đó thôi.
Thái tử chấp nhận bỏ hết tình riêng với tuổi đời đang còn hưng phấn mãnh liệt nhất về tình dục, thật ra cũng đắng cay chua xót lắm chứ, cái mà nhiều người mong muốn được như Ngài mà không bao giờ có được. Ngài đã vô lượng kiếp tu tâm từ rộng mở, muốn tìm ra nguồn gốc và thân phận của tất cả chúng sinh để tìm ra giải pháp giúp cho con người thoát ly sinh, già, bệnh, chết.
Nhờ có lý tưởng cao cả và lập trường vững chắc đó, thái tử mới thoát ra được lưới ái, lìa buộc ràng, để ra đi tìm đạo giải thoát. Nếu Ngài không có tâm nguyện cao cả, lớn lao, để cứu khổ chúng sinh, thì cũng khó mà vượt qua khỏi chiếc lưới luyến ái vợ đẹp, con xinh.
Nhờ có lý tưởng cao cả và lập trường vững chắc đó, thái tử mới thoát ra được lưới ái, lìa buộc ràng, để ra đi tìm đạo giải thoát. Nếu Ngài không có tâm nguyện cao cả, lớn lao, để cứu khổ chúng sinh, thì cũng khó mà vượt qua khỏi chiếc lưới luyến ái vợ đẹp, con xinh.
Còn nữa...
Thích Đạt Ma Phổ Giác