Chùa Việt
Chùa Hồng Phúc và pho tượng độc đáo
Thứ bảy, 21/09/2022 03:25
Ngôi chùa Hồng Phúc giữa lòng thủ đô, qua những điển tích văn bia, di vật, một lần nữa lại minh chứng cho sự khế hợp giáo lý trong tâm thức người Việt và dung thông Đạo – Đời là nét đẹp độc đáo trong tiến trình phát triển đặc thù của Phật giáo Việt Nam.
Dẫn nhập
Chạm tay vào lịch sử qua những thực thể còn lưu lại những dấu ấn thời gian, nhờ vậy mà cảm nhận được hơi thở của di tích trong không gian văn hóa, tín ngưỡng, vẫn trường tồn, được giữ lại qua những công trình kiến trúc Phật giáo, qua cái nhìn nghệ thuật.Bài viết “Chùa Hồng Phúc ở Hà Nội và pho tượng độc đáo lấy thân làm tòa” như một cơ hội tìm hiểu lịch sử một ngôi cổ tự bằng bằng phương pháp khảo cứu và tham khảo, nghiên cứu liên ngành, như sử học, thực tế, logic, phỏng vấn…
I. Lịch sử chùa Hồng Phúc ở Hà Nội
1.1. Khái quát chùa ở quận Ba Đình
Trước khi tìm hiểu về chùa Hồng Phúc, trong một hệ thống quần thể mang tính liên hệ thì phải lược qua về vị trí địa lý quận Ba Đình và những ngôi chùa lớn.
Nhìn về lịch sử, từ thời Lý – Trần – Lê, quận Ba Đình luôn nằm trong khu vực Hoàng Thành. Quận Ba Đình hiện nay là đất khu được thành lập 1961, trước đó thuộc đất khu Ba Đình và khu Trúc Bạch.
Ngày nay, thuộc trung tâm thành phố Hà Nội, nằm phía tây bắc Hà Nội và phía nam Hồ Tây, phía bắc giáp quận Tây Hồ và sông Hồng, phía đông giáp quận Hoàn Kiếm, phía nam giáp quận Đống Đa, phía tây giáp quận Cầu Giấy. Diện tích khoảng 9,3 km2, đơn vị hành chính gồm 14 phường.
Trong mối quan hệ gắn bó, có thể nói hệ thống đình chùa, miếu quán ở quận đã tạo nên hệ thống quần thể di tích lịch sử, tín ngưỡng, góp phần làm nên nét văn hóa truyền thống dân tộc.
Qua một số tìm hiểu, sưu tầm, thống kê thì quận Ba Đình có 1 quán, 3 miếu, 14 đền, 9 đình. Phật giáo từ khi du nhập, trải qua bao thời đại hưng suy của dân tộc, có thể nói rất gần gũi với đời sống tinh thần. Chính bởi vậy nên nhân dân luôn sẵn lòng ủng hộ, công sức tiền của vào xây dựng những đền thờ, miếu mạo, với mong ước hướng vọng đến chư vị hữu công, tiền Hiền hậu Thánh. Quận Ba Đình là khu trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội của nhiều triều đại trước, với vị trí ưu tiên của Đạo Phật thời Lý Trần, có thể nói mật độ chùa tập trung ở đây khá nhiều là 24 ngôi và có niên đại rất sớm, chủ yếu vào thời Lý:
Trải qua biến thiên của thời gian, sát nhập của triều đại phong kiến, quận Ba Đình, ngày nay luôn nằm trong vùng trung tâm của kinh thành Thăng Long xưa. Nhờ vậy, nơi đây tập trung hệ thống di tích lịch sử lâu đời, lưu giữ những giá trị văn hóa quý báu của kinh thành và của dân tộc. Tuy sự dàn trải các chùa không đồng đều nhưng vẫn mang chung một tinh thần hòa nhập dân tộc, giao lưu tín ngưỡng, văn hóa bản địa làm nên nét đặc trưng quận Ba Đình trong dòng chảy lịch sử của đất nước.
1.2. Lịch sử chùa Hồng Phúc
Chùa Hòe Nhai có tên tự là “Hồng Phúc tự”, nay thuộc số nhà 19 phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình.
Hiện nay, còn lưu giữ câu đối viết về gốc tích ban đầu từ lịch sử xây dựng đến nguồn phát tông phái:
“Tào Khê nam chính phái, Tây Thiên đông độ, đồng thử nhất nguyên.
Hồng Phúc cổ danh lam, tiền Lý hậu Lê, dĩ lịch thiên tải”.
Nghĩa dịch:
“Chính phái nam Tào Khê, gốc từ chư Tổ Ấn độ đến Trung Hoa trải dài đều chung một nguồn.
Chùa cổ Hồng Phúc, vốn cảnh danh lam, trước là thời Lý xây dựng, nhà Lê phục dựng, trải qua nghìn năm”.
Tương truyền trước đây những người thi đỗ đạt thường đến đây trồng một cây Hòe để làm kỷ niệm bởi một đời cây dài bằng một đời người. Cũng có thuyết giải thích rằng theo điển cố quy hoạch kinh đô cổ thì “đông Hòe, tây Liễu”, đường phố (phía đông) kinh thành trồng cây Hòe, đường phố phía tây trồng cây Liễu. Nay gần chùa Hòe Nhai nay còn một đường phố cắt ngang phố Hàng Than mang tên phố Hòe Nhai. Chùa Hòe Nhai được tạo dựng vào thời hậu Lý, khuôn viên của chùa trước kia rất rộng. Chùa Hòe Nhai là một trong những ngôi chùa lớn cổ xưa ở Thủ đô mà mỗi bước thăng trầm của chùa đều gắn liền với những sự kiện lịch sử của dân tộc.
Đến cuối thế kỷ 17, có lần bảo mẫu của vua Lê Hy Tông quê ở chính phường Hòe Nhai đã đứng ra xây dựng lại chùa rồi thỉnh Hòa thượng Thủy Nguyệt đến trụ trì, Hòa thượng Thủy Nguyệt là tổ thứ nhất của dòng Tào Động, một trong 5 phái của Phật giáo Việt Nam.
Kể từ đời Hòa thượng Thủy Nguyệt đến nay, ở chùa Hòe Nhai đã có 48 vị tổ sư, trong đó có nhiều vị được triều đình phong sắc. Hiện nay, ở nhà tổ của chùa còn trưng bày một đạo sắc niên hiệu Cảnh Hưng thứ 11 (1750) do vua Lê Hiển Tông phong cho vị sư Trần Văn Chức. Hòa thượng Thích Đức Nhuận, nguyên Pháp chủ Hội Phật giáo Việt Nam cũng trụ trì ở chùa này, ngài đã viên tịch tháng 12 năm 1993. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 tại chùa đã diễn ra cuộc họp các vị tăng, ni, phật tử Thủ đô để cử một đoàn đại biểu đến yết kiến chính phủ cách mạng; tiếp đó cũng tại đây đã diễn ra sự kiện thành lập Hội Phật giáo cứu quốc.
Theo như mấy bia ở chùa thì vì chùa dựng ở phường Hòe Nhai nên gọi là chùa Hòe Nhai và có tên chữ là Hồng Phúc.
“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”
(Hòa thượng Thích Mãn Giác (Huyền Không))
Theo văn bia năm Chính Hòa 24 (1703) đời vua Lê Hy Tông (1676 – 1705) do Tiến sĩ Hồ Tông Mục soạn ghi “chùa xây tại Hòe Nhai tại bến Đông Bộ Đầu”. Văn Bia còn có đoạn miêu tả vị thế chùa như sau:
“Hồng Phúc ở Hà Thành
Núi Nùng như vạt áo
Sông Nhị như giải lưng
Hồ Trúc Bạch chắn ngang
Dòng Tô Lịch vòng lại
Đây thực là chốn Tùng Lâm lâu đời của đất Thăng Long…”
Ngoài ra, còn có ghi: chùa xây dựng lại năm Chính Hòa 24 (1703), nhưng trên xà nhà cổ lại ghi năm Chính Hòa 19 (1698), phía ngoài bên trái chùa chính có một tấm bia ghi niên hiệu Chính Hòa 20 (1699). Như vậy, chùa Hòe Nhai được xây dựng trước năm 1699 và trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Trên thượng lương nhà Tổ còn ghi: trùng tu năm Gia Long 11 (1812). Theo tấm bia dựng năm Thành Thái 11 (1899) thì các năm Giáp Ngọ (1894) và Kỷ Hợi (1899) các tòa nhà của chùa đều được tu bổ.
Chùa Hòe Nhai trải qua nhiều lần sửa chữa lớn khá thường xuyên vào các năm 1920, 1946, 2010. Phạm vi chùa trước kia khá lớn, sang thời Pháp thuộc bị thu lại như hiện nay.
Mặc dù, những dấu tích thời Lý không còn nhiều, nhưng qua nội dung văn bia ghi chép lại, có thể nói, chùa Hồng Phúc, giữa quần thể lịch sử trong quận còn giữ được khá đầy đủ minh chứng qua các thời phục dựng. Từ đó, góp phần không nhỏ trong việc tìm hiểu lịch sử nước nhà, những khảo cổ về văn hóa, mỹ thuật, kiến trúc, văn bia, chung, khánh….Thông qua lần khảo cổ về chùa, người viết cũng có cơ hội nhìn nhận lại về những di tích lịch sử dường như đối với tâm thức ngày nay, thường quên lãng, hi vọng đây cũng là bài viết gửi tới thế hệ trẻ về sự huy hoàng của dân tộc, khởi dựng lại niềm tự hào đối với cha ông trong công cuộc giữ nước.
Phiên âm văn bia chùa Hồng Phúc:
Sùng tu Hồng Phúc tự bi
Lê triều kinh đô Hòe Nhai chi Hồng Phúc tự, thị tự dã, chẩm nhị Hà nhi khâm Trúc Bạch, tiền Quan Thánh nhi tả Huyền Thiên. Tam đảo lai tông, vạn lí sơn xuyên chung tú khí; Nhất hồ tịnh độ, ức niên cảnh trí lệ phong quang. Việt tự ngao phân, dĩ hữu sư tọa. Quốc kỳ dân đảo, nẫm hữu linh yên. Cái vị tinh xuyên lịch duyệt, phong vũ hám chàng. Tuy trang nghiên tùng khởi ư nhân công, nhưng thành hoại nan du ư lý số. Tứ hoàn đồng vũ, truyền kiếm khuynh đồi. Đương thử Viên Giao Taò Động đệ nhị Tổ sư phụng lâm âm ba hạ trinh thoa, chẩn diệu lực trùng tu cam mã. Nhất thời doanh lý, tứ cố hoán luân. Thụ thụ chi gian, dĩ lịch tứ thế tổ hĩ. Đới chi thời đinh Bính Ngọ nguyệt thích Ất Mùi. Thiên hạ chi bắc đẩu vân lung, nhân gian chi trung nguyên trọc loạn. Hồng Phúc nhất thiên vi chi tảo địa tận hỹ. Truật kỳ quang phục, cáo tâm đãi ư đại lực yên. Thời hữu kế đăng tôn giả pháp hiệu Khoan Nhân, niệm Tổ sư phiệt duyệt trụ trì, khởi cam tâm tọa quan dẫn diệt. do thị phát Kim cương tâm, triển Bát Nhã trí. Hóa thốn tâm ư bát biểu, hội vạn thiện vu nhất đường. Phương khuynh chi lai, kỳ tân tân hễ ngão mộc, chi mãi kỉ tể hề. Kinh chi doanh chi, tốt tuế thành chi. Như điểu chi cách, như thúy chi phi, hoán khởi nhất thiên, thị tiền độ tương mâu yên nhĩ. Dục truyền cứu viễn, mệnh bút nhi minh chi vân, ủy phó đệ tử tự Giác Lâm.
Minh viết:
Kinh đô biên cương
Hồng Phúc thượng phương.
Tiền khâm Trúc Bạch
Hậu chấm Nhị Giang
Sơn xuyên Vạn lý
Chung dục nhất đường.
Việt tòng tạo thiết
Dị lịch tinh sương
Quốc kỳ dân đảo
Lũ kiến trạc dương
Lâu nhi phục đột
Ám nhi phục quang.
Nhất hồ cam vũ
Ức tải đạo tràng
Liên đăng tục diệm
Địa cửu thiên trường.
Hoàng triều Gia Long thập niện thập nhất nguyệt cốc nhật.
Phụng đặc tứ Đạp nguyên Tăng thống Thanh Lăng Tỷ Khiêu tự Khoan Dực soạn ký.
Dịch nghĩa:
Bài ký sùng tu chùa Hồng Phúc
Chùa Hồng Phúc phố Hòa Nhai ở kinh đô là ngôi chùa có từ triều Lê vậy, gối sông Nhị Hà, ôm hồ Trúc Bạch, phía trước có đền Quan Thánh, bên trái quán Huyền Thiên. Dãy Tam Đảo chầu về, muôn dặm núi sông hun đúc, khí tốt, một bầu Tịnh Độ, muôn năm cảnh trí phong quang. Xét từ thuở chia phân trời đất, đã có sư Thầy đến dựng tòa, nước cầu dân đảo, rất có linh ứng. Nhưng qua sương giăng năm tháng, gió mưa bập bùng, tuy là chốn tùng lâm ttrang nghiêm tráng đẹp, với sức người thành rồi lại hoại là số trời định đoạt. do đó bốn phía chùa rồi cũng đổ nát. Đương khi ấy, Tổ sư Viên Giao đời thứ 2 dòng Tào Động vâng theo chỉ dụ Vua ban, tiền của tu sửa chùa. Một phen ra tay tu tạo, bốn phía đổi thay. Truyền thụ trao tay, đã trải qua bốn đời Tổ vậy. Thế rồi, vào đúng tháng Ất mùi năm Bính Ngọ, mây mờ sao Bắc đẩu, cõi đất trung nguyên loạn lạc, một bầu trời cảnh Bụt chùa Hồng Phúc tan nát hết. Nhưng muốn khôi phục quy mô cũ, ắt chờ người có công đức lớn. Bấy giờ có vị kế đăng tôn giả, pháp hiệu Khoan Dực, nhớ tổ sư các đời trụ trì, mở lòng mới dựng xây chốn Tổ. Do đó, phát Kim Cương tâm, khai triển Bát Nhã trí tuệ, mở tấc lòng xây tòa bát biểu, tụ muôn thiện dựng cảnh thiền đường. Mới đó đổi thay, ngói, gỗ mới thêm, rồi trùng tu xây dựng, cuối năm hoàn thành. Thật nhanh như chim cất cánh, như diều bay cao. Một lần đổi thay, so với xưa thì khác nhiều. Muốn mãi về sau, mới mệnh cho viết bài minh, úy phó cho đệ tử tự là Giác Lâm.
Bài minh viết:
Kinh đô biên cương
Có chùa Hồng Phúc
Trước ôm Trúc Bạch
Sau gói Nhị Giang
Núi sông muôn dặm
Hun đức thiền đường
Từ ngày xây dựng
Trải mấy tinh sương
Quốc cầu, dân đảo
Rất được hiển linh
Mưa lâu hư dột
Xây dựng phong quang
Một bầu cam vũ
Muôn thủa đạo tràng
Truyền đèn nối lửa
Trời đất mãi còn.
Ngày lành tháng 11 năm Hoàng triều Gia Long thứ 10 (1811)
Phụng đặc tứ Đạo nguyên Tăng thống Thanh Lăng Tỷ Khiêu tự là Khoan Dực soạn văn.
II. Kiến trúc mỹ thuật chùa Hồng Phúc
Chùa Việt cổ miền Bắc, hầu hết đều lấy thượng điện là trung tâm chính. Cách bố trí của ngôi chùa Việt theo kiểu nội công ngoại quốc cũng là một sự mô phỏng Mandala thế giới. Phần cuối của lối kiến trúc chữ Đinh hay chữ Công, nơi đó đặt tháp thượng điện và có khi được dùng để chạy đàn. Về bản chất, Tam bảo cũng là một dạng thức hiện thực hóa thế giới Niết bàn, trong đó các tượng Phật đều ngồi trên một tòa sen báu – một núi Tu Di hay một tiểu thế giới, nên được gọi là Tu Di đài.
Mỗi một tôn giáo bao giờ cũng tự xây dựng cho mình một hệ thống tư tưởng mà sở biểu của nó là hệ thống các biểu tượng tương ứng.
Phật giáo cũng vậy, ngoài việc xây dựng nên vũ trụ quan đồng thời cũng đã dựng nên vô số các biểu tượng đa trùng về thế giới trong đó phải kể đến bộ ba biểu tượng: Mandala- núi Tu Di và Liên hoa tạng thế giới. Trong đó, núi Tu Di là một mã văn hóa tiếp thu từ Brahman giáo, nhưng đã có những biến đổi sâu sắc khi đi vào hệ thống kinh tạng Phật giáo.
Núi Tu Di trong kinh sách Phật giáo được mường tượng như là một đài sen nhô lên từ mặt nước (nhất hoa nhất thế giới). Nhìn trên bình đồ, mô hình thế giới với cửu sơn bát hải vây xung quanh được gọi là Mandala, với hình ảnh hoa sen lại nở ra hoa sen, hàm ý Phật tính sinh sinh bất diệt, vô cùng vô tận. Theo Hoa Nghiêm kinh, núi Tu Di là pháp hội của thế giới tạng hay cõi nước Tịnh Độ của Phật Tỳ Lô Xá Na- chân thân của đức Thích Ca Như Lai. Kinh này cũng nói hoa sen lớn sinh ra từ hương thủy hải, trong hoa sen ấy lại hàm chứa các thế giới nhiều như vô số vi trần, cho nên gọi là Hoa Tạng Thế Giới Hải. Trên Hương Thủy Hải trồi ra đóa sen lớn ngàn cánh, trong đóa sen lớn chứa vô số những thế giới khác nhau nhỏ tựa bụi trần (vi trần), vì thế được định danh bằng tên Hoa Tạng Thế Giới hay Liên Hoa Tạng Thế Giới. Các Đức Phật chứng được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, dùng tịnh thức chuyển biến ra các thế giới, vì thế cho nên gọi là thế giới chư Phật (tiếng Phạn là “ksetra”, nghĩa là “cõi” hay “cõi nước”). Hoa sen lớn ví như chân như pháp giới, được miêu tả với nghìn cánh hoa, mỗi cánh là một thế giới đức Phật Tỳ Lô Xá Na hóa làm 1000 đức Thích Ca ở 1000 thế giới. Mỗi thế giới lại có trăm ức núi Tu Di, và 1000 triệu thế giới, trăm ức cõi Nam Diêm Phù Đề. Hoa sen mọc trên biển là nơi chư Phật hội tụ được gọi là Liên Trì Hải Hội- tiêu biểu cho sự tập hợp của Phật A Di Đà, chư Bồ tát, các bậc thức giả, Thánh chúng, cùng các thượng thiện nhân đều hội nơi Tây Phương Cực Lạc. Gọi là Liên trì Hải Hội vì số Phật tham dự là vô số, trải dài ra như đại dương trong pháp giới.
Trong những giai đoạn xa xưa, các công trình kiến trúc để tưởng niệm đức Phật thường xuất phát từ một dạng ý niệm. Tháp vốn xuất nguồn từ hình ảnh bát úp, biểu tượng y bát của đức Phật. Tháp biến đổi rất đa dạng theo thời gian, theo từng vùng lãnh thổ, và dạng kiến trúc này sau đó đã hòa kết với vũ trụ quan Phật giáo. Vào các nước Đông Á như Trung Hoa, Việt Nam,…stupa về sau đi đôi với kiến trúc tịnh xá, và thường thì nằm ở trung tâm của tự viện. Khái niệm “chùa tháp” là biểu hiện của sự hòa phối các kiểu công trình kiến trúc khác nhau về cùng một đối tượng. Và cao hơn hết, nó biểu hiện cho một lối tư duy về vũ trụ theo nhãn quan của nhà Phật. Tháp là chùa, chùa cũng là tháp. Chùa tháp là các biểu hiện khác nhau của một mô hình phổ quát – Mandala vũ trụ. Trong đó, bảo tháp mô phỏng núi vũ trụ Tu Di- cột vũ trụ (cosmic pillar), đó là trụ nối liền giữa trời và đất, và đồng thời là con đường giải thoát. Điều này giải thích vì sao tháp thường chiếm vị trí trung tâm của các tự viện cổ (chùa Dâu). Những tòa tháp nổi tiếng ở Đông Á có cấu trúc này như tháp Đa Bảo trong chùa Bulguksa (Hàn Quốc) dựng năm 751, Đại Hồng đài tại miếu Tu Di Phúc Thọ (Trung Quốc) dựng năm 1780, điện tháp của chùa Bạch Cư (Trung Quốc) xây dựng năm 1427,…
2.1. Kiến trúc chùa Hồng Phúc
Phật giáo có lịch sử hơn 2.500 năm, và nghệ thuật của nó đã tồn tại gần như lâu đời, len lỏi theo đường du hóa của các nhà sư và khách hành hương qua các khu vực rộng lớn của châu Á và trên khắp các vùng biển, đan xen với nghệ thuật và phong cách của nền văn hóa bản địa. Không có gì ngạc nhiên khi những giáo lý và hình ảnh của tôn giáo quốc tế này rất rộng lớn và phức tạp, vì vậy nhiệm vụ giải mã biểu tượng Phật giáo là khó khăn.
Chùa Hồng Phúc nhìn về đất Phật ở hướng tây. Tuy hiện nay diện tích còn lại của chùa không lớn nhưng mặt ngoài trông thoáng đãng với dãy tường hoa khá dài và các cổng ở trên mặt hai phố Hàng Than và Hoè Nhai. Khuôn viên bên trong mát mẻ, trang nghiêm, có nhiều cây hoa đẹp trồng dọc theo lối đi lại và các khoảng sân nho nhỏ dưới những tán cổ thụ xanh tốt quanh năm.
Ảnh vệ tinh cho thấy mặt bằng chùa Hoè Nhai có bố cục kiểu “nội Công (工) ngoại Quốc(国)”. Qua cổng chính trên phố Hàng Than, du khách bước vào một sân ngắn với các tháp mộ ở hai bên phía trước tòa Tam bảo. Tiền đường, thiêu hương nối với hậu cung được xây theo hình chữ “Công”. Phía sau chính điện có nhà Tổ và trai phòng với các dãy hành lang bao bọc xung quanh, tạo nên một thể khép kín mang nghĩa, đoàn kết, duyên sinh. Ngôi chùa hiện nay có lẽ chỉ còn thiếu hồ sen và lầu chuông, gác trống so với mô tả trong tấm bia dựng năm 1703. Một khác biệt nữa là cổng cũ đã thay bằng một ngũ môn quan to hơn nhiều.
Trên diện tích khoảng 3000 m2 gồm 2 tòa bái đường 5 gian, chính điện 3 gian, nhà Tổ 7 gian. Phía trước là chính điện, phía sau là Tổ đường và tăng phòng, xung quanh là hành lang. Thượng điện còn giữ được nhiều bức chạm hình tứ linh và các cửa võng sơn son thếp vàng. Chùa có nhiều tượng Phật được bày làm 6 lớp. Tổng số tượng ở chùa Hòe Nhai gồm 68 pho, được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như đồng hun, gỗ mít, được sơn son thếp vàng, vừa phô diễn được nét khéo léo qua bàn tay thợ nghề xưa, lại vừa cẩn mật kín đáo tránh bị quân đạo tặc khởi tà tâm. Có lẽ, đây là sự tinh tế trong tâm thức chư Tổ để gìn giữ những báu vật cổ, trải bao đời, còn nguyên vẹn.
Chùa có một quả chuông mang niên hiệu Long Đức 3 (1734). Sân chùa có hai ngọn tháp cao 3 tầng. Trong chùa còn có đến 28 tấm bia, cổ hơn cả là bia dựng năm Chính Hoà 24 (1703) ghi rõ vị trí chùa ở phường Hoè Nhai, tại Đông Bộ Đầu tức Bến Đông. Chính nhờ bia này mà giới sử học ngày nay xác định được vị trí trận chiến thắng ngày 29 tháng 1 năm 1258 của quân nhà Trần mà sử chép là chiến thắng Đông Bộ Đầu, đuổi quân Nguyên, giải phóng kinh thành có vị trí ở khu vực gần chùa Hoè Nhai ngày nay.
Chỉ bằng vài nét phác qua về kiến trúc ngôi chùa cổ Hồng Phúc, đã đưa hậu thế được trở về với lịch sử hào hùng dân tộc, được cảm nhận ý vị Phật pháp trong từng lối xây dựng, bài trí, đặt để.
2.2. Mỹ thuật chùa Hồng Phúc
Không chỉ hiện thực hóa vũ trụ quan bằng các công trình kiến trúc chiếm lĩnh không gian ba chiều, những dân tộc theo Phật giáo xưa còn có nhiều phương thức hiện thực hóa khác, trong đó phải kể đến hội họa, một sự chiêm nghiệm bằng không gian hai chiều. Phật giáo là sợi dây chung duy nhất thống nhất thế giới châu Á, từ Ấn Độ đến Đông Nam Á, qua Trung Á đến Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Để hướng dẫn và truyền cảm hứng cho các tín đồ, vô số biểu tượng và hình ảnh đã được thực hiện, bắt đầu ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Truyền thống đa dạng phi thường này không chỉ bao gồm các bức bích họa, chạm khắc phù điêu, các bức tượng khổng lồ, các bức tranh thêu lụa và các đồ dùng nghi lễ bằng đồng mà còn có các đền thờ bằng đá với hàng nghìn vị Phật, các bảo tháp huy hoàng của Đông Nam Á và các ngôi chùa ở phương Đông, các ‘Mandala bằng đá’ của Borobudur ở Java và toàn bộ quần thể đền thế kỷ mười ba tại Angkor ở Campuchia.
Chúng ta có thể thấy mô hình của nó được vẽ trong các điện thờ. Các bức bích họa trong các hậu cung thường được dùng để sùng phụng và chiêm bái. Các tác phẩm đồ họa vừa như là một sự chứng minh lại vừa như là những lời tụng giảng bằng hình trong các kinh sách. Trong đó đặc biệt nhất có lẽ là các bức họa Tangka của Tây Tạng, một sự thực hành nghệ thuật bền bỉ và tinh tế, nhưng cao hơn thế đó là phương tiện để chứng ngộ và nhập đạo.
Tọa lạc trên một khu đất vuông vắn, mỗi chiều khoảng hơn 50m, cửa chùa nhìn ra hướng Tây, tức phố Hàng Than. Ngoài cùng là tam quan dựng kiểu trụ biểu, điển hình của kiến trúc thời Nguyễn. Tiếp đến sân chùa bài trí hai ngọn tháp cao 3 tầng thờ Tổ Tăng, bên cạnh dựng hai nhà bia lớn. Bố cục khu thờ chính của chùa gồm bốn tòa nhà xếp thành hình chữ công. Phía trước là hai bía đường liền mái chạy song song, mỗi tòa nhà năm gian, chính điện gồm ba gian nằm dọc, phía sau là nhà Tổ bảy gian, sát bên phải nhà thờ Tổ đối xứng với thượng điện là tòa “Kinh viện” (nhà để kinh) 13 gian. Phía bên trái gồm các công trình nhà khách, nhà kho, nhà bếp. Kiến trúc của chùa trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa, nhưng các nếp kiến trúc chính như: tòa tiền đường, thượng điện vẫn giữ được lối kết cấu cũ hình chữ công, nghĩa là theo nguyên tắc chung của các ngôi chùa thờ Phật của Việt Nam. Tòa tiền đường bên ngoài mới làm thêm vào thế kỷ 19, theo kiểu 8 mái chồng diêm chịu ảnh hưởng của kiến trúc cung đình. Tòa thượng điện còn bảo lưu được nhiều bức cuốn chạm lọng, chạm nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng) và hệ thống cửa võng sơn son thiếp vàng lộng lẫy thể hiện các đề tài “Cúc, trúc, thọ, mai hóa điểu”. Có lẽ chưa có ở đâu mà nhiều hoa cúc xuất hiện ở Việt nam như thế, từ ngai, hoa văn, áo mão, bệ, cửa, bao lam….đều mang ý nghĩa chung của dân tộc về sự viên mãn, trường tồn, hoa cúc là biểu tượng của mặt trời, trúc mang tính kiên trung, bất khuất của quân tử, mai với ý nghĩa của sự dũng cảm, bền lòng trước gió rét, mưa bão…. Trong Phật giáo, cũng gần với những nghĩa trên, đồng thời cũng biểu thị cho tâm thái của người hành giả trên con đường tu chứng, cũng phải qua những khó khăn, thử thách.
Trong chùa có nhiều tượng cổ, cổ nhất là tượng Cửu Long (Thích Ca sơ sinh). Đặc sắc nhất pho tượng kép hình một vị vua quỳ để tượng Phật trên lưng. Chùa còn bộ Tượng Dược Sư tam tôn (Dược Sư Phật, Nhật Quang Bồ tát, Nguyệt Quang bồ tát), cùng với một bộ Hoa Nghiêm Tam thánh, các tượng Phật, Bồ tát này đặc biệt nhất Việt Nam vì tạo hình đầu trọc như một vị sư chứ không có tóc Bụt ốc,…Từ góc độ lịch sử, thì hình tượng Phật có phần khác hẳn so với hình Phật thường thấy, có lẽ cũng mang ý nghĩa thể hiện nhiều điều cần được tìm hiểu.
Đối với Phật giáo, thì đức Phật luôn được mô tả có nhục kế trên đỉnh đầu, như hình búi ốc xoay về phía phải còn chư vị đệ tử Thánh Tăng đều tướng đầu tròn trang nghiêm. Nhưng hệ thống tượng của chùa, trừ Tam thế, Thích Ca, Di Đà, thì bộ tượng còn lại đều ở hình Thanh văn, viên đỉnh tướng, mang giá trị kiệt tác đến ngày nay. Lại thấy được tính độc lập dân tộc Việt trải qua các thời kỳ lịch sử đều được tỏ bày khác nhau, hoàn toàn khác biệt với Phật giáo Trung Quốc như nhiều người lầm tưởng, rồi vô tình lại thành phỉ báng chính dân tộc, do sự nhầm lẫn lịch sử của bản thân. Chắc hẳn, tính bao hàm ý nghĩa khiến hậu thế có vô số suy đoán, nhằm giải thích điều này. Dưới lăng kính Phật giáo, tư tưởng xuyên suốt là Tam bảo gồm Phật Pháp Tăng trong mối liên quan không tách rời, như một thể thống nhất, vì chúng nhân mà hiển bày phương tiện độ sinh. Pháp là mẹ của ba đời chư Phật, là tam tạng giáo lý tương đồng của chư Phật, Tăng là người thượng cầu thành Phật, hạ hóa chúng sinh. Cho nên, tượng hình thái Tăng không có gì sai lạ, nhưng loại hình chạm khắc này, chỉ tồn tại ở một số ngôi chùa xây dựng thời Lê, như chùa Mét, chùa Tây Ngư ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình…. Đây cũng là câu hỏi tự vấn đối với những hậu nhân khi tìm hiểu về lịch sử. Có phải chăng, điều này, liên quan đến thời kỳ lịch sử lúc bấy giờ, với ý nghĩa kính Tăng như Phật, bởi chư Tăng là người truyền trao giáo pháp, đồng thời khi nhìn về sự truyền lưu mạng mạch chốn Tổ Hòe Nhai cũng nhiều vị được vua quan kính ngưỡng?
Hệ thống tượng Phật phong phú làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, được tạo tác công phu tinh xảo, bố cục cân đối, mỗi pho tượng biểu lộ một vẻ riêng và mang những giá trị nghệ thuật cao, thể hiện nét chân dung như thực của thời Lê nhiều hơn. Có lẽ, chùa thời Lý được dựng lên, còn tượng pháp đến thời Lê, có phần tu bổ thêm cho đầy đủ vì phong cách tượng trong chùa mang hình thức khác với những pho tượng thời Lý của chùa Phật Tích.
Tại nhà tiền đường bên phải là ban thờ Đức Ông (theo điển tích chính là vị cư sĩ Hộ pháp Cấp cô Độc, trong khóa cúng ở Bắc thì gọi là Già Lam Chân Tể) và Hộ Pháp bằng đồng, dưới chân mỗi Ngài là thanh long và bạch hổ biểu tượng ý nghĩa phong thủy, bên trái là tượng Thánh Hiền, hai bên là tượng Diện Nhiên và Đại Sĩ, theo tích về giấc mơ của Ngài A Nan.
Tại nhà thượng điện bày trí sáu lớp tượng: Lớp thứ nhất là tòa Cửu long và Phật Thích Ca sơ sinh đứng trên tòa sen sơn son thiếp vàng bằng đồng, hai bên là tượng Phạm Thiên và Đế Thích. Lớp thứ hai, phía ngoài là tượng Bồ Tát Phổ Hiền cưỡi bạch tượng, bên trái là tượng Văn Thù Bồ Tát cưỡi Thanh sư.
Lớp ba: là Tam Thánh tượng, giữa là Phật Dược Sư, hai bên là Nhật Quang và Nguyệt Quang Bồ Tát. Y cứ danh hiệu và quốc độ chư Phật theo thứ tự như trên, chúng ta thấy con đường Dược Sư, tự chữa bệnh vô minh cho mình và người, cần đi qua bảy chặng:
– Vận Ý Thông Chứng Như Lai ở Tối Thắng thế giới, phát tâm Bồ Đề, trên cầu thành Phật, dưới độ chúng sinh, là tâm địa tối thắng.
– Quán Âm Tự Tại Như Lai ở Diệu Bảo thế giới, tính nghe không bị âm thanh chi phối, chuyển động. Lấy đây làm nhân địa tu hành viên thông, thật là của báu vô giá.
– Quảng Đạt Trí Biện Như Lai ở Tịnh Trụ thế giới, Tịnh trụ là chỗ an tĩnh thanh tịnh, điều kiện thiết yếu để phát triển trí tuệ.
– Tối Thắng Cát Tường Như Lai ở Vô Ưu thế giới, tâm địa vô ưu, không bận tâm vướng mắc ghét yêu, hẳn bình an khang cát. An vui và giải thoát phải cùng đi đôi.
– Pháp Hải Du Hý Như Lai ở Pháp Hỷ thế giới, vui chơi trong biển Phật Pháp. Đủ 3 tuệ Văn Tư Tu là nhân để vun trồng Nhất Thiết Chủng Trí.
– Kim Sắc Thành Tựu Như Lai ở Viên Mãn thế giới, Viên mãn biển hạnh, đầy đủ vạn đức trang nghiêm, sẽ thành Phật, thân vàng tướng hảo.
– Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở Tịnh Lưu Ly thế giới, Vô thượng y vương. Từ nay gánh vác hết thảy hữu tình. Suốt đời vị lai làm việc nghĩa lợi an vui. Vớt chúng sinh ra khỏi vực thẳm tam đồ, thoát chài lưới ma, rừng rậm ác kiến. Khiến cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo như mình không khác.
Lớp thứ tư: giữa là tượng Thích Ca giáo chủ, hai bên là tượng Bồ Tát Đại Ca Diếp và Át Nan Tôn giả.
Lớp thứ năm: chính giữa là tượng A Di Đà ngồi thiền trên tòa sen, chân xếp vòng tròn, hai tay đặt lên đùi, ngực có chữ Vạn, hai bên là tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát.
Lớp thứ sáu: nơi cao nhất của tòa Phật điện bài trí ba pho tượng Tam Thế Phật, ngồi thiền định trên tòa sen, tóc xoắn ốc, tượng trưng chư Phật thuộc ba thì quá khứ, hiện tại và vị lai (tư tưởng Phật giáo thời kỳ phát triển).
Đặc biệt ở bên trái thượng điện bài trí pho tượng tạc ở tư thế ngồi trên lưng ông vua đang phủ phục thể hiện hình tượng sám hối, bên phải có tượng Hộ Pháp, bên trái là Quan Âm tọa sơn, mỗi bên đều có hai vị thiên vương trong hình tướng quan phục nước Việt. Lại một lần nữa, bao hàm nội dung khác biệt so với các chùa thường làm như Hộ Pháp hay Vi Đà, mang đậm bản sắc dân tộc về mặt ý thức hệ.Hình ảnh này tạo cảm giác nhấn mạnh đến ý nghĩa các vị Vua, quan Hộ pháp, bảo vệ Chính pháp. Hai hàng dọc tường hậu cung chùa là thập điện Diêm Vương mỗi bên năm vị. Diêm Quân, Diêm Vương hay Diêm La tiếng Ấn gọi là Yama/Diêm Ma/ Dạ Ma.
Trong huyền thoại Phật giáo, Diêm-la vương nguyên là vua của xứ Vệ-xá-li (Vaiśālī). Trong một trận chiến tranh đẫm máu, ông ước nguyện làm vua địa ngục và quả nhiên được tái sinh làm Diêm-la vương. Diêm vương có 8 tướng quân và 80.000 binh sĩ. Mỗi ngày ba lần Diêm-la vương và các tướng sĩ phải chịu hình phạt bị đổ đồng sôi vào miệng cho đến khi tội ác của họ được tha thứ. Diêm vương là người phái cái già, cái chết đến cho con người, nhắc nhở họ đừng làm gì trái với đạo lý. Diêm-la vương có người em gái là