Hỏi - Đáp
Có nên cho trẻ em nghe kinh, chú, hoặc tham dự khóa tu chung với người lớn?
Thứ bảy, 03/07/2019 06:35
Con có một con trai 4 tuổi và trước khi ngủ cháu cũng thích nghe nhạc chú Đại Bi, thỉnh thoảng con mở cả kinh và nhạc niệm Phật. Có khi con mở cả ngày. Con không biết liệu mở nhạc niệm Phật, kinh và chú Đại Bi nhiều như vậy, nhất là cho các em nhỏ như con của con có sao không?
VẤN:
Thưa thầy! Con rất thích niệm chú đại bi, nghe nhạc niệm Phật và thường cầu nguyện rất nhiều như là gia đình hạnh phúc, thành đạt, giàu sang, con cái hiếu thuận, học giỏi, mọi người khoẻ mạnh, không bệnh tật. Con tu hành mà cầu nguyện nhiều như vậy có gọi là bị tham không?
Con cũng có một con trai 4 tuổi và trước khi ngủ cháu cũng thích nghe nhạc chú đại bi, có lẽ nghe từ con nên con mở cho cháu nghe, thỉnh thoảng cả mở kinh và nhạc niệm Phật. Có khi con mở cả ngày.
Con không biết liệu mở nhạc niệm Phật, kinh và chú đại bi nhiều như vậy nhất là cho các em nhỏ như con của con có sao không? Con nên dạy bé niệm thay việc nghe hay cả hai được không? Con nghe nói kinh chú không nên mở cả đêm vì như thế dễ chiêu cảm cảnh giới xung quanh, rằng mỗi khi kinh mở ra là chư thiên, các cảnh giới khắp nơi câu hội về, kể cả âm cảnh, như thế là không tốt. Nhưng nghe nhạc nghe kinh con ngủ rất an lành dù một vài lần thức dậy có cảm giác nhức đầu. Trẻ con nghe kinh nghe nhạc chú đại bi nhiều có tốt không thầy? Xin thầy chỉ dạy cho con được rõ.
ĐÁP:
Những cách tu niệm đúng cách
Niệm Phật, niệm chú, cầu nguyện, nghe niệm Phật...tất cả đều có công đức khôn lường. Tuy nhiên, tụng kinh là để thúc liễm thân tâm trau giồi giới thân huệ mạng, trau giồi trí tuệ tiến đến giải thoát, giúp cho người tụng kinh có niềm tin tụng kinh thoát nạn, tụng kinh giải nạn tai. Thật vậy ý nghĩa tụng kinh giải nạn tai trở thành ý tưởng thực dụng. Tụng kinh Phật vâng lời Phật dạy, tụng kinh Phật lánh xa các điều ác, tụng kinh Phật nguyện làm các viện lành, tụng kinh Phật hay làm lành lánh dữ. Do làm lành lánh dữ là nhân lành, nhân lành thì hưởng quả lành, nhân ác thì hưởng quá ác. Chân lý là như vậy, không thể nào thay đổi được.
Người trong thế giới ta bà tu niệm Phật, có nhiều cách tu, có khi hành pháp bằng miệng, có khi hành pháp bằng tai, có khi hành pháp bằng mắt. Tu cách nào cũng được miễn sao chánh niệm niệm Phật là được.
Có nhiều cách tu niệm, người trong nhơn gian tu cách nào cũng chứng đắc, các nào cũng an lạc, chủ yếu là giữ cho thân khẩu ý chánh niệm, chánh niệm thì thanh tịnh. Thanh tịnh chính đó là thiền, thiền niệm, huệ lực sẽ sanh, tam muội xuất hiện hiện tiền, tương lai thấy Phật và thành Phật.
Niệm Phật khởi xướng từ tâm, tâm tịnh thì Phật độ tịnh, chính đó là thế giới Cực lạc phương tây của hành giả niệm Phật.
Một tiếng niệm Phật, một tiếng tâm
Phải tín thâm tâm Phật lại thâm
Mắt mộng chưa khai tình kéo dẫn
Từ quang thường chiếu dạ trầm trầm
Một tiếng niệm Phật, xuất phát từ tâm, trong đó có ba ngàn oai nghi, tám mươi ngàn tế hạnh đều gồm thâu trong một niệm tâm. Niệm tâm thường trụ mà chu biến khắp cả pháp giới chúng sanh đều ảnh hưởng đến tấm lòng, liền tỉnh giấc nam kha mà quay về nẻo giác, làm thánh chúng thượng thiện nhơn, vượt khỏi nghi thành thai cung, giữ trọn niệm tin ở nội thành của cung điện thế giới Đức Phật A Di Đà.
Ở thế giới Cực lạc phương Tây mọi người vẫn tu hành, ngàn người như một, ngàn Phật như một Phật. Một thế giới thường tịch mà thường chiếu, tịch chiếu man mác như ánh sáng buổi chiều thu, lần lượt trôi đi vào trong cô tịch của thiền định thẳm sâu.
Xin nói về thế giới tu của pháp môn Tinh độ, xưa thì ngang dọc lễ Phật lễ Pháp lễ Tăng, nay thì do thế giới nhiều hiệu ứng, cần phải đối phó nên cách tu có khác, một cách tu nhanh gọn để sẳn sàng vượt qua mọi ồn ào náo nhiệt của thời gian. Có người không rảnh để gieo năm vóc đảnh lễ từ phụ Thế Tôn, không có thời gian đảnh lễ Tam Bảo, không có thời gian để đọc lại những lời dạy của Phật, nên chỉ có niệm Phật là duy nhất. Niệm Phật có 48 cách niệm Phật, làm sao cho thân khẩu ý hướng về miền an tịnh. Nay theo thời đại mới vẫn phải tu, nhưng có những cách tu sao cho gọn, đồng thời rút gọn còn 3 cách nhằm giúp cho chư Phật tử để tu, dễ niệm.
Tu bằng miệng tất cả những lời tụng (chúc tụng) đọc lại những lời kinh Phật, tán (tán dương, xưng tán), ca tụng khen tặng, dùng những lời nói hay lời nhạc ca tụng lời Phật, nguyện (cầu nguyện) tức là đưa ra ý tưởng tốt, một lòng khởi niệm làm tăng năng lượng cho ý tưởng mới của mình. Niệm (nhép miệng), niệm tưởng, xướng kệ gọi chung là “niệm” tức là tưởng nhớ Đức Phật, tưởng nhớ Đức Bồ tát, tưởng niệm đề mục, chú ý vào một ý tưởng xâu xa cao vút, mọi người tôn vinh. Niệm xuất phát từ “khẩu nghiệp”, nghiệp của khẩu xuất phát từ sự động tịnh, pháp thiện, pháp bất thiện nên gọi là khẩu nghiệp. Gọi tịnh khẩu nghiệp chân ngôn, xưa nay người tu lầm tưởng là nín lặng gọi là tịnh khẩu nghiệp.
Theo Đức Tôn sư Thiện Phước Nhựt Ý dạy thì tịnh khẩu nghiệp, tức là người tu hành nói lời nói thiện, nói ra như hoa sen nở, nói ra làm mát lòng người, nói ra làm lợi ích cho trăm họ. Lời nói của người tu là lời nói chơn thật nghĩa, chơn thật ý, chơn thật ngữ nói ra từ miệng mình phải bảo đảm lời nói mình có trọng lượng. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Pháp Sư Công Đức, vị Pháp sư dùng lưỡi tán thán kinh Pháp Hoa sẽ được một ngàn hai trăm công đức. Tịnh khẩu nghiệp là lời nói có mực thước, lời nói có cân lượng, lời nói có chất lượng, lời nói mình là pháp lành là hoa nở giữa mùa xuân lợi làm ích nhơn thiên.
Đối với người tu Tịnh độ niệm Phật, thì niệm Phật tức là chánh niệm. Có 3 cách niệm làm sao giữ cho chánh niệm, “niệm Phật và niệm tâm là một”. Ba cách niệm Phật như sau: một là cao thinh trì, hai là kim cang trì, ba là mặc trì.
Cao thinh trì: tức là niệm Phật, tụng kinh bằng miệng, niệm lớn tiếng, chủ yếu làm cho tiếng niệm lấn át mọi âm thanh ngoại cảnh xung quanh, âm thanh ngoại cảnh như không còn bởi chỉ nghe tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm mười phương Tam Bảo.
Kim Cang trì: là tiếng niệm Phật bằng miệng nhưng không ra tiếng, niệm thì thầm không có âm thanh xen đan lẫn nhau, đôi môi đánh vào nhau mà thôi.
Niệm kim cang trì: là niệm vững chắc trong tất cả niệm, dù chỉ nhép miệng nhưng phép niệm nầy làm cho một tiếng niệm Phật một tiếng tâm có vẻ đồng bộ hơn, có nhiều năng lượng hỗ trợ cho phép niệm Phật không bị xen tạp niệm. Ông bà xưa dường như tu pháp nầy gần cả thế kỷ, tu độc thân, độc thiện, một mình quán chiếu khắp sơn hà đại địa vẫn không khiếp trước những ngũ dục lạc chốn phú ba.
Mặc trì tức là không niệm lớn tiếng bằng thiệt thức, cũng không niệm nhỏ tiếng bằng âm thanh mà niệm bằng vô thanh nhưng vững vàng như thành đồng vách sắt sừng sững giữa vùng núi non thiêng liêng hùng vĩ. Mặc trì là niệm bằng ý thức, ý căn thì lanh lợi, do lanh lợi mà sáng suốt trong các ý tưởng nảy sanh từ vô ý thức.
“Mặc” là trần tư trong thế giới vô cùng sống động, linh hoạt trong mọi tình huống, từ đó trong lúc niệm Phật có nhiều trở ngại, luôn xây trở một cách tự nhiên, làm cho dễ bị rối lọan tâm tưởng. Mặc trì ít có sự tưởng nhớ mà đương nhiệm khởi niệm, nên tiến niệm Phật luôn bồng bềnh trong thế giới trầm mặc, là cho người đang tu khó kiểm soát. Khi bắt đầu niệm thì phải đợi đến 10 phút sau mới điều phục được tâm niệm.
Trong các pháp môn tu, pháp tu niệm bằng miệng còn có điểm đặc biệt là dành cho người có sức khỏe, trẻ trung hằng ngày tinh tấn tu hành, dũng mãnh tụng kinh niệm Phật không thối chuyển. Tụng niệm bằng miệng được phước báo sắc tốt, sống lâu thân an, miệng trào phúng, nước cam lộ luôn rịn nhuần tắm mát cõi nhân gian.(Ý tưởng trong 48 phép niệm Phật của Giang Đô Trịnh Vy An)
Tu bằng tai trong Kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phân biệt Công đức thì đánh giá tai có 1200 công đức, tức là tai nghe xa, thâm thấu xuyên suốt pháp giới mười phương, bức xả của tai sẽ xuyên thủng các chướng ngại như núi non, thành trì, không gian, thời gian, các trở ngại vật đều phóng xả trong gang tấc, nhường cho nhĩ thức nghe suốt một chiều dài thiên niên kỳ. Tai xuyên suốt đến thiên đình, trải qua các tầng trời từ Tứ thiên vương đến Đạo Lợi thiên tai nghe suốt những âm điệu của thành thần ở thế gian, tà thần thổ địa, nghe được những tiếng kêu trầm thống của con người và có thể đến đó để cứu vớt họ.
Tu bằng tai, tức là nghe tiếng niệm Phật, từ miệng mình niệm, tai mình nghe, nghe từ tiếng mọi người niệm mà tĩnh giác, nghe từ tiếng pháp mầu mà giác ngộ tu hành. Những cái nghe như vậy dành cho những người còn có sức khỏe, những người có nghị lực, những người tinh tấn mà tu hành, gọi là tu bằng tai. Tai phải thanh tịnh, khi nghe tiếng chửi, nghe tiếng khen đều bất động chính đó là tu bằng tai. Trong khóa lễ tu tập mọi người cùng nghe niệm Phật với nhau trở thành một âm thanh mầu nhiệm. Tiếng niệm Phật không xa rời, chánh niệm hiện tiền, hiện tiền đạo lực uy nghiêm, đưa người tu đến tĩnh giác thực thụ khi niệm Phật bằng tai.. Người tu bằng tai cũng có thể là do thân yếu đuối bị xói mòn theo năm tháng.
Tu bằng mắt: Theo kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh, phẩm Phân biệt công đức, thì mắt có tám trăm công đức. Mắt có thể thấy phía trước, nhưng không thấy phía sau. Mắt thấy xa trong thực tế chỉ có mười cây số vưông, mắt không thể nhìn xuyên thấu các bức tường, các cao ốc, núi non. Tuy nhiên, mắt chiêm ngưỡng Phật, các vật dụng cụ thể, các hiện tượng hiện thực, thấy được tướng hảo của Tam bảo xuất thế gian, tam bảo thế gian. Mặt có thể quán tượng niệm Phật hay quán tượng niệm Phật, có thể chiêm ngưỡng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật. Nhân rộng ra thì mắt có Bồ tát Thiên Thủ, Thiên Nhãn, hộ trì làm cho mắt có thể thấy được tam giới là trống không thanh tịnh hay thế giới nầy uế trược như thế giới ta bà.
Tu bằng mắt, tức là niệm Phật bằng mắt. Người tu chiêm ngưỡng tượng Phật trên bàn thờ, sau đó trở về nơi liêu phòng ngồi bán già nhớ nghĩ thành tượng mà niệm Phật. Người có căn miệng không tốt, thân yếu đuối chỉ còn có cách mắt trông nhìn tượng Phật, trông nhìn đó tức là niệm Phật. Đây là phần chủ yếu của hạnh tu bằng mắt
Tu bằng thân tức là lễ Phật, xưng tán Phật, chúc tụng Phật, đảnh lễ niệm Phật, lạy sám hối hồng danh hiệu Phật, lạy đứng hay ngồi, hoặc quỳ mà niệm, đi kinh hành, chứ không nằm mà niệm. Nằm niệm chỉ dành cho những người già cả yếu đuối, hơi tàn sức cạn, không còn khả năng đảnh lễ Phật, niệm Phật nữa nên thân nằm niệm. Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa thị thân có tám trăm công đức mặc dù thân đỡ đần nhiều công việc. Thân có thể lấp sông, phá núi, san bằng những gò nổi tạo thành mảnh đất bao la tươi đẹp cho ngàn hoa đua nở. Thân tu tức là dùng thân niệm Phật, tụng kinh dùng thân làm các Phật sự. Thân tuy là phương tiện lớn trong đường tu niệm, vì có thân, nên có thọ quy giới, có hộ giới, có pháp tu thập nhân thọ, chánh pháp Phật trụ thế. Tuy nhiên, thân cũng có trở ngại, khi mang thân tứ đại, máu thịt gân xương, hơi nóng, hơi thở, nước do là uế trược, nên không thể thuyết pháp trên các cõi trời cấu nhiễm ở Dục giới, Sắc giới, chỉ trừ khi nào đắc đạo xả báo thân mới đến cõi vô hình mà độ chúng.
Tu thân, miệng, ý kỹ càng
Làm cho tâm ý rỗi nhàn bổn căn
Cho Tây phương ấy sinh sang
Quê hương Cực lạc gió ngàn mát tâm
Tu miệng, tu thân, tu mắt, tu tai là những phương tiện tu ở thế gian những người mới vừa biết đạo, đang thực tập. Mọi người thấy có tu có chứng có đắc, thực dụng, cụ thể như thế, nên có quả vị, có niết bàn. Những cách tu trên tuy đơn giản dành cho những người mới tập tu, nhưng chắc chắn làm sáng tỏ cho Ánh Đạo của Đức từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Lẽ dĩ nhiên quá trình tụng niệm với quy cách cầu an, các bạn có quyền cầu nguyện, nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho con cái, cho chúng sanh, cho nhơn loại, cho thế giới, cho thiên hạ hái bình thịnh trị, không có gì phải lỗi lầm. Nói đến cầu siêu thì nguyện theo hướng cầu siêu độ... Mỗi mỗi thời tụng niệm để có những sở nguyện mà Bạn phải lo liệu.
Tuy nhiên, nếu bạn tu hành chân thật và quyết tâm thì đã an lạc rồi còn gì phải nguyện ước cho nhiều, nguyện càng nhiều càng nặng nề lắm! Vả lại người tụng niệm nhiều, nguyện nhiều là người tăng trưởng lòng tham lam ích kỷ, muốn việc gì mình cũng được hết, chẳng lẽ mọi người phải chịu khổ hết hay sao? Cho nên người tụng niệm nhiều đôi khi cũng là người có túi tham không đáy. Với tâm địa ấy dù người có niệm Phật nhiều cũng vô ích, vì người đó chưa tu hành chi cả!
Khi nghe kinh, pháp, tụng, niệm, phải ngồi một nơi nào thật trang nghiêm
Trước khi nói đến lợi ích việc tụng niệm, nghe kinh chú, Sư nói đến việc bất lợi trong việc nằm nghe kinh chú, ru con ngủ bằng kinh chú, mở băng nghe pháp không giờ khắc, không ngồi trang nghiêm nghe pháp.
Việc mở băng pháp phải có giờ có thời giờ khuôn thước, đặt thời dụng biểu khi nào mở máy nghe pháp thì mở, khi nào không mở thì không mở. Khi mở pháp để nghe thì không nên nằm nghe pháp, hoặc vừa làm việc nhà vừa nghe pháp, vừa công tác xã hội vừa nghe pháp.
Khi nghe kinh, pháp, tụng, niệm, phải ngồi một nơi nào thật trang nghiêm để nghe pháp, hoặc phải mặc áo tràng vào chánh điện ngồi bán già thật nghiêm chỉnh để nghe. Không nên ngồi tréo chân nghe pháp, ngồi nằm trên ghế xích đu nghe pháp, không nên nằm võng, nằm trên ván để nghe pháp dù đó là những lời thuyết giảng bằng băng đĩa.
Như thế chứng tỏ ta là người con Phật làm việc gì dứt khoát việc đó. Làm việc cho mình, làm việc cho người phải làm cho đến nơi đến chốn, không nên có tâm ý nửa vời, việc nào cũng không xong. Việc ta chưa xong làm gì có cơ sở giúp người đế nơi đến chốn. Người xưa thường nói, nhất là Đức Tôn sư thường dạy:
Trong đời
Không gì quý bằng
Khi ta tự mình
Thảnh thơi
Ăn hết bát cơm
Uống hết bát nước
Nói cạn lời nói
Giúp người
Đến nơi đến chốn
Người xưa tu hành kỹ hơn người thời nay, vậy mà lắm lúc có những điển tích để lại nghe mà rùn mình vì sự khinh lờn mà sa đọa vào loài cầm thú. Một Thầy Sa di nghe trống công phu, tiếng chuông công phu khuya mà không ngồi dậy để đi tụng niệm sau khi mạng chung sẽ thành rắn. Rắn nằm dài nghe kinh (Thiền sư Trung Hoa - Thích Thanh Từ).Trong sách Thiền cũng nói một Hòa thượng quở Thầy Sa di đến giờ công phu khuya, không chiu ngồi dậy công phu cho nghiêm túc ngươi chết thành con “rắn”. Công phu mà còn chấp nê, chết thành “con cóc”. (Thiền sư Trung Hoa - Đệ tử ngài Đức Sơn - HT Thích Thanh Từ).
Thiện tai giải thóat phục
Bát tra lễ sám y
Ngã kim đảnh đới thọ
Thế thế thường đắc phi
Nam mô Ca sa tràng Bồ tát ma ha tát
Lợi ích tụng niệm Phật
Tụng kinh hay cúng kinh là việc lợi ích cho những người Phật tử, người xưa làm những việc dâng hương, cúng nước, điểm chuông. Những công việc nầy gọi là Phật sự giúp cho người Phật tử tăng cường tánh nhu mì, nết na đầm thấm. Người Phật tử có dâng hương, cúng 3 chun nước sẽ được hữu ích tăng trưởng tánh khiêm cung, từ tốn và quảng đại. Những đức tánh nầy làm cho người Phật tử xuất hiện lòng từ bi như Đức Phật, trong đạo Phật chỉ có lòng từ bi là ý tưởng lớn nói lên tiếng nói của Phật. Chỉ có Đức Phật mới đủ lòng từ bi chí đức mà tha thứ những lỗi lầm cho con người, cho những người nghịch ý mình. Nhân lòng từ bi nầy mà Đức Phật ban bố tinh thần vô úy vị tha, giúp cho mọi người qua cơn họan nạn.
Tụng kinh là việc khiêm cung
Tán tụng niệm Phật sống cùng một gia
Đạo Thích chung ở một nhà
Tinh thần vô úy chan hòa thế gian
Dâng hương là cử chỉ hạnh lành vi tế làm cho người trở nên khiêm cung, biết phát huy tánh khiêm nhường, hay nhường bước cho thiên hạ đi qua những lúc gặp khó khăn. Tinh thần khiêm cung làm cho con người trở nên đại hoan hỷ, không câu mâu cau có trước những đối phương đồng hành trong sa mạc tình thương. Dâng hương làm cho mùi thơm lan tỏa khắp nơi đem lại những ánh hào quang bản hạnh nguyện trong chốn rừng thiền.
Dâng hương là việc nhà thiên
Cúng nước là việc đầu tiên phải làm
Khi đến bàn Phật tận tâm
Đảnh lễ năm vóc mê lầm vượt qua.
Gia đình đồng tu là hạnh phúc
Năm 1960 Đức Tôn sư thường giảng cho những người dưới thế lên núi cầu nguyện cho nhà cửa, cho gia đình an cư lạc nghiệp, những người cầu tu. Tôn sư nói: “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, bất tu bất đắc”. Căn cứ vào kinh Tiểu bổn A Di Đà, thì chư Thượng Thiện Nhơn bên thế giới Cực Lạc phương Tây rất nhiều vô số, tuy nhiều nhưng tâm vẫn một. Lý do là vì mỗi người đều lo tu, tự tu, thường xuyên làm các Phật sự hằng ngày, buổi sáng đi hái hoa, buổi trưa được tham dự buổi cúng dường trai phạn và thọ thực, thọ thực xong rồi đi kinh hành.
Trong kinh Địa Tạng, Phật dạy công việc của người sống đối với người chết, người con báo hiếu cho cha mẹ khi qua đời: “..người sống làm việc phước để hồi hướng cầu siêu độ cho người thân qua đời, thì người chết chỉ được hưởng một phần còn lại người sống hưởng bảy phần, kinh cho chúng ta thất việc tu di tu nấy đắc chứ không tu dùm được...”! (kinh Địa Tang Vương Bố tát - bản dịch Đoàn Trung Còn).
Tức là mỗi người mỗi tu, mỗi người tự tu, dù đang sống trong thế giới có chủ trương tu theo tha lực, nhờ sức mạnh của Phật Di Đà nhiếp thọ, tiếp dẫn được vãng sanh.
Theo thiền ý của Sư, pháp tu Tịnh độ có cả tự lực và tha lực, chứ không phải chỉ có tha lực tiếp dẫn nhưng có tha lực của Phật hộ trì. Trường hợp người kia suốt đời gây tội ác, khi lâm chung có kết duyên với Phật, rước Thấy đến tụng kinh siêu độ thì được “đới nghiệp vãng sanh”, đây chi là trường hợp đặc biệt cứu vớt người cùng khổ.
Người tu niệm Phật như đi thuyền qua sông, nếu người không muốn đi (tự lực) thì dù cho thuyền có to lớn bao nhiêu (đại nguyện tha lực) cũng không thể chở người kia qua sông được. Cho nên người tu Tịnh độ phải tu đủ hai môn tự lực và tha lực, không ai tu dùm ai được, thiếu một vẫn không kết quả.
Mặc khác, nói tu Tịnh độ có tha lực hộ trì như qua sông nhờ có ghe thuyền. Tuy nhiên, do chúng sanh nghiệp lực quá nặng, không tỉnh thức cùng đi với mọi người qua sông, thì ông lái đó vẫn phải chịu phép không thể đưa người kia qua sông cùng mình.
Tu trì chú Đại bi nhiều rất tốt, nhưng đừng nên lạm phát trong việc tu niệm, giờ nào tụng chú thì tụng chú, giờ nào làm việc thì làm việc. Không nên vừa làm việc vừa tụng chú, thành ra vọng động, bị động trong vùng tâm thức, tức là tụng chú Đại bi vô ích, ma lực tinh tấn đang ngự trị trong Bạn!
Tụng chú Đại bi phải có giờ khắc, được phân theo thời dụng biểu hằng ngày, mấy giờ tụng chú, mấy giờ làm việc. Làm việc thì làm việc, tụng chú thì tụng chú, không xen tạp giữa chú Đại bi và việc làm. Vì bạn không thể tu hành trong lúc làm việc, làm việc không có thời gian rỗi rảnh tụng chú, nếu tụng gọi là vọng niệm, vọng niệm thì tụng chú như không tụng!
Tha lực tự lực pháp tu
Niệm Phật Tịnh độ công phu cho bền
Niệm Phật tiếp điển ơn trên
Tự lực tha lực xây nền Phật gia.
Lợi ích gia đình
Gia đình là đơn vị xã hội, có tổ chức, tu hành cũng có tổ chức, trên dưới trước sau như một, cầu có sự đồng bộ khi quy y tam bảo, đừng để so le người ý nầy người ý khác, lắm bề bộn trong đời sốg hằng ngày cũng như việc trăm năm. Tuy nói ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, bất tu bất đắc, nhưng trong cộng đồng cần có sự động viên cân nhắc lẫn nhau sống trong thế giới nhà Phật. Sự cân nhắc lẫn nhau đó là tinh thần sống chung được thể hiện rõ tình gia đình, tình yêu cộng đồng.
Một gia đình quy y, tức là gia đình đó có Phật ngự, mỗi lần ông bà xích mích lẫn nhau không ai đám mạt sát nhau nữa, vì ông mạt sát bà, tức là mạt sát Đức Bồ tát Quan Âm, bà mạt sát ông, tức là bà mạt sát Phật Thích Ca Mâu Ni rồi. Từ đó chúng ta có Đức Phật ngự trong nhà chúng ta, hạnh phúc tràn đầy đến với gia đình.
Mỗi tối, cả nhà cùng đến bàn thờ ngôi Tam bảo, phát tâm tụng niệm cho có lực hộ không nên xé lẻ người tụng trước tụng sau. Người tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, người tu Thiền, người niệm Phật, người tụng chú Đại bi, người theo Pháp Luân công, người theo vô thượng sư... làm mất đi thắm tình đạo vị ngay tại gia đình.
Cũng có những lúc khai kinh bộ tụng kinh Phổ Hiền, kinh Pháp Hoa. Nghi thức tụng kinh xong, cùng nhau ăn bánh uống trà, luận đạo chỗ nào còn kém khuyết thì bổ sung vào nơi đó, chỗ nào đầy đủ thì phát huy thêm cho năng lượng tu hành càng ngày càng sâu sắc, cao thượng hơn. Tu tập đoàn, tập thê tạo nên sức mạnh vô hình, giúp cho mọi người trong gia đình có cuộc sống phấn khởi, vinh hạnh được sống trong mái ấm gia đình Đạo Phật.
Giữa đêm trừ tịch chốn môn đình
Phá cảnh u trầm nói kệ kinh
Mãn khóa Pháp Hoa nhàn rỗi việc
Ché trà Long Tĩnh uống vơi bình.
Tu tập đoàn, tập thể chính là tính cách của cộng đồng tha lực, hỗ tương cho nhau trong những lúc tối lửa tắt đèn, hỗ trợ cho nhau khi hoạn nạn, giúp đỡ nhau lúc cần thiết, tu kém tinh tấn. Cách tu theo tha lực Tịnh độ cũng là tu tập thể, như thế giới Phật bên Tây phương, có Phật, hàng Bồ tát, chư Thinh văn, chư vị Thánh chúng Thượng thiện nhơn, lúc nào cũng đông đảo và chỉ nghe tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Gia đình là xã hội chung
Vợ, chồng con cái phải cùng chữ tu
Hôm qua vướng áng mây mù
Hôm nay tỉnh giấc một lòng tu chân