Kiến thức
Có nên đốt vàng mã cho người đã khuất trong mùa Báo hiếu?
Thứ năm, 29/07/2022 02:06
Tập tục đốt vàng mã cho người khuất thọ dụng là tín niệm, tín ngưỡng dân gian. Tín niệm này có mặt nhiều nơi trên thế giới với các hình thức khác nhau, riêng ở nước ta ảnh hưởng tập tục này từ văn hóa dân gian Trung Quốc. Phật giáo chính thống không có tín niệm này.
Con người sau khi chết sẽ tùy vào nhân duyên, nghiệp lực đã gây tạo mà sinh vào một cảnh giới tương ứng với nhân quả của mình. Đa phần chúng sinh bị luân hồi trong sáu đường (lục đạo: trời, a-tu-la, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) của Dục giới.
Một số ít chư vị có căn lành sâu dày, nếu niệm Phật đạt nhất tâm bất loạn và làm tốt các trợ hạnh thì thành tựu vãng sinh về Cực lạc (theo quan điểm Tịnh Độ tông). Nếu hành giả chuyên tu thiền định (không nguyện vãng sinh Cực lạc) mà chưa đạt giải thoát tối hậu (A-la-hán) thì thuận theo nhân quả sinh vào các tầng trời của Sắc giới.
Sau khi chết, theo Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy), thần thức lập tức tái sinh vào các cảnh giới tương ứng với nghiệp. Phật giáo Bắc tông (Đại thừa) quan niệm khác hơn, ngoài hai trường hợp tái sinh ngay lập tức (cực thiện tái sinh vào cõi trời và cực ác tái sinh vào địa ngục) thì còn có nhiều trường hợp thần thức trải qua giai đoạn trung gian tối đa là 49 ngày, sau đó tái sinh vào các cảnh giới tương ứng với nghiệp. Sinh vào bất cứ đâu trong ba cõi sáu đường, kể cả địa ngục cũng đều gọi là tái sinh.
Theo Phật giáo, khi tái sinh vào cõi nào thì sự thọ dụng (ăn, mặc, ở, tiện nghi…) hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp lực của loài chúng sinh trong cõi ấy. Đơn cử, nếu đủ phước tái sinh làm trời thì sự thọ dụng của loài trời thắng diệu gấp nhiều lần loài người. Nếu mang những vật phẩm tối hảo của thế gian dâng cho chư thiên ở cõi trời chỉ khiến họ nhờm gớm, ghê tởm, không thể nào thọ dụng được. Ngược lại nếu chúng sinh tội lỗi nặng nề bị tái sinh vào địa ngục chịu đau khổ vô lượng cũng không thọ dụng được bất cứ thứ gì của cõi người, ngoại trừ đem công đức phước báo hồi hướng cho họ. Chỉ các chúng sinh trong loài ngạ quỷ (và một số quỷ thần trong loài a-tu-la) mới có thể thọ dụng được “mùi vị” của đồ ăn, thức uống, hoa hương của loài người dâng cúng. Họ cũng không thọ dụng được giấy tiền vàng mã mà loài người (đốt) cho họ.
Như vậy, tập tục đốt áo quần, đồ đạc, tiền vàng, nhà cửa, xe cộ… cho người chết thọ dụng là tín niệm, tín ngưỡng dân gian. Tín niệm này có mặt nhiều nơi trên thế giới với các hình thức khác nhau, riêng ở nước ta ảnh hưởng tập tục này từ văn hóa dân gian Trung Quốc. Phật giáo chính thống không có tín niệm này.
Ở phương diện nhân văn, có tâm nghĩ về tiền nhân, ân nhân, những người đã mất và mong muốn gửi gắm hay làm điều gì đó cho họ, tâm hạnh này thật đáng quý và rất đáng trân trọng. Ngoài tâm và hạnh, Phật giáo luôn khuyến nghị phát huy trí tuệ, thấy rõ bản chất cũng như hiệu quả của việc mình đang làm, sao cho có lợi ích thiết thực nhất.
Người Phật tử có chánh kiến, nhân mùa Báo hiếu hay ngày giỗ, chúng ta hướng về tổ tiên, ông bà, cha mẹ để niệm ân và báo ân thì tùy duyên làm cỗ cơm nước dâng cúng và phát nguyện làm những điều phước thiện (tụng kinh, lễ Phật, giữ giới, hành thiền, bố thí, cúng dường, giúp sức, hoan hỷ, tán thán việc thiện…) trong khả năng rồi đem phước báo ấy hồi hướng cho những người đã khuất. Dù người thân chúng ta tái sinh vào bất cứ đâu cũng đều nhận được phước báo mà chúng ta hồi hướng đến.
Cúng đốt vàng mã với số lượng nhiều và giá tiền lớn, trong khi người thân đã mất lại không thọ dụng được thì chẳng những không mang lại lợi ích cho người chết mà người sống cũng bị ảnh hưởng như gây ô nhiễm môi trường, nguy cơ tạo ra hỏa hoạn, tốn kém tiền bạc, và nhất là rơi vào mê tín nên người Phật tử cần suy xét để chuyển hóa.