Kiến thức

Công đức xây chùa, tạc tượng, đúc chuông lớn như thế nào?

Thứ hai, 10/08/2022 09:18

Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông vô cùng to lớn, phước báo lớn lao không thể nghĩ bàn.

Vào thời đức Phật Ca Diếp, Ngài Đế Thích Thiên là một cô gái nghèo. Cô gái này một hôm nhìn thấy ngôi chùa đổ nát liền phát tâm tu sửa. Cô kêu gọi được 32 người thân cùng tu sửa chùa và tượng Phật. Về sau khi 33 người này mạng chung sanh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Cô gái hưởng phước làm Đế Thích, 32 người còn lại làm Thiên Chủ của 32 Thiên xứ xung quanh.

Ngài Chu An Sĩ bảo: “Phật, Pháp và Tăng-già là Ba ngôi báu, là thửa ruộng tốt để chúng sinh gieo trồng phước đức. Nhưng muốn cúng dường trang nghiêm lên Tam bảo, ắt chỉ có thể thực hiện được ở nơi chùa chiền, tu viện. Nếu không có chùa chiền, tu viện, ắt không có tượng Phật, Kinh điển giáo pháp. Hàng tăng ni nói riêng, bốn chúng Phật tử nói chung, dù muốn gieo trồng vào ruộng phước, lễ bái dâng hương, thọ trì đọc tụng Kinh điển, cũng không có nơi để thực hiện. Xét theo đó thì biết, công đức của người xây dựng, tu sửa chùa chiền, tu viện là hết sức lớn lao.”

Xây dựng chùa, tạo dựng tượng Phật, đúc chuông trước là để tạo nơi thờ Phật, sau là nơi tu học và là nơi hoằng truyền Phật pháp, cứu độ muôn loài chúng sinh.

Xây dựng chùa, tạo dựng tượng Phật, đúc chuông trước là để tạo nơi thờ Phật, sau là nơi tu học và là nơi hoằng truyền Phật pháp, cứu độ muôn loài chúng sinh.

Lời Phật dạy về Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông

Kinh Chánh pháp niệm xứ dạy: “Nếu chúng sanh nào nhìn thấy chùa chiền, tháp miếu hư hỏng liền ra sức tu sửa, lại khuyên dạy người khác cùng làm việc tu sửa, thì sau khi mạng chung được sinh về cõi trời, thân thể tươi sáng đẹp đẽ, vào rừng san hô quý cùng các thiên nữ vui hưởng năm món dục lạc. Khi nghiệp cõi trời đã hết, liền được sinh làm người, thân thể cũng được tươi sáng đẹp đẽ.”

Theo kinh Pháp diệt tận: “Về sau, khi thế giới khởi sinh tai kiếp lửa thiêu, nơi nào đã từng xây dựng chùa chiền, tháp Phật sẽ không bị thiêu đốt.” Đức Phật dạy: “Ví như có người bỏ ra trăm ngàn lượng vàng để xây dựng một ngôi chùa, lại được một vị tỳ kheo giữ giới từng trụ trì nơi đó, thì cho dù ngôi chùa ấy về sau có bị lửa cháy, nước lụt mà hủy hoại mất đi, công đức của người xây dựng chùa ấy cũng không bị mất.” Theo đó mà xét thì việc xây dựng chùa chiền, tu viện nếu được thành tựu, trở thành ruộng tốt để chúng sinh gieo trồng phước đức, công đức sẽ lớn lao biết đến dường nào!

Theo kinh Ưu Điền Vương Tác Phật Hình Tượng: “Xưa kia thời đức Phật tại thế, có Quốc vương Bạt Kì, tên gọi Ưu Điền, đi đến trú xứ đức Phật đầu mặt đảnh lễ Ngài, chắp tay thưa với đức Phật rằng: Thưa Đức Thế tôn! Nếu sau khi đức Phật diệt độ, có chúng sinh làm hình tượng đức Phật, thì sẽ được phước thế nào?

Đức Phật bảo với nhà vua rằng: Nếu như sau này có người làm hình tượng đức Phật, thì công đức vô lượng không thể tính được, đời đời sanh ra không rơi vào đường ác, ở trên cõi Trời và trong loài người được phước lành vui sướng, thân thể thường có màu sáng ngời như Tử Ma Kim, ánh mắt trong sáng-dung mạo đoan chánh, thân thể tay chân kỳ diệu tuyệt vời, luôn luôn được mọi người kính mến.

Nếu sanh trong loài người, thì thường sanh làm con trong nhà Đế Vương-Đại thần-Trưởng giả-Hiền thiện, nơi sanh ra tôn quý giàu có, tài sản châu báu không thể kể hết, thường được cha mẹ anh em họ hàng thân thích quý trọng. Nếu làm Đế Vương thì đặc biệt tôn quý trong hàng Đế Vương, được các bậc vua chúa các nước cùng quay về nương nhờ. Cho đến được làm Chuyển luân thánh vương cai quản các bậc vua chúa khắp nơi, bảy báu tự nhiên-ngàn người con đầy đủ, bay lên trên cõi Trời không có nơi nào không đến được.

Nếu sanh trên cõi Trời thì thù thắng nhất trong các vị Trời, thậm chí được làm Thiên vương sáu tầng Trời cõi Dục, ở trong sáu cõi Trời là vị Thiên vương tôn quý bậc nhất. Nếu sanh vào cõi Phạm Thiên thì làm Đại Phạm vương, đoan chánh không gì sánh được-hơn hẳn các vị Phạm Thiên, thường được các Phạm Thiên tôn trọng cung kính, sau đó đều được sanh vào quốc độ Vô Lượng Thọ, làm bậc đại Bồ-tát tôn quý bậc nhất, trải qua vô số kiếp sẽ được thành Phật, đi vào đạo quả Niết-bàn. Nếu như tương lai có người làm ra hình tượng đức Phật thì sẽ đạt được phước thiện như vậy”.

Về công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông, kinh Pháp Hoa có kệ:

Nếu như người vốn có niềm tin

Xây dựng các hình tượng đức Phật

Thậm chí trẻ thơ chỉ vui đùa

Hoặc dùng cỏ cây và bút mực.

Hoặc có khi dùng móng tay chân

Mà vẽ thành hình tượng đức Phật

Tất cả những người làm như vậy

Đều đã thành tựu trong Phật đạo”.

Theo kinh Tạo Lập Hình Tượng Phước Báo nói: “Đức Phật đi đến nước Câu la cù, lúc ấy Quốc vương tên gọi là Ưu Điền, nhà vua tuổi mới mười bốn. nghe tin đức Phật đang đến, liền truyền cho cận thần tả hữu thảy đều nghênh đón đức Phật. Khi đức Phật đã đến liền cúi đầu đảnh lễ đức Phật, vòng tay quỳ thẳng thưa với đức Phật rằng:

Trên cõi Trời giữa cõi người không có ai có thể bằng đức Phật, ánh sáng rạng ngời uy nghiêm sừng sững mới có năng lực như vậy, sợ rằng đức Phật đi xa sau này e khó được gặp, nay con muốn làm thành hình tượng đức Phật để cung kính tiếp tục mãi được hầu hạ, có được phước báo thế nào, nguyện đức Phật thương xót giảng giải điều ấy cho con!

Bấy giờ Đức Thế tôn thuyết kệ trả lời rằng:

Nhà vua hãy lắng nghe Ta nói,

Phước như tro bụi trên mặt đất,

Không có phước đức nào hơn được,

Phước báo làm hình tượng đức Phật.

Luôn luôn sanh vào nhà giàu có,

Tôn quý vô cùng nhiều châu báu,

Thân thích quyến thuộc thường cung kính,

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Thường có được phước báo Thiên nhãn,

Sắc xanh biếc không gì sánh

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Cha mẹ trông thấy lòng hoan hỷ,

Đoan chánh uy đức thật tôn trọng,

Yêu mến luôn luôn không thỏa mãn.

Phước báo làm hình tương đức Phật,

Thân sắc vàng sáng ngời rực rỡ,

Giống như hình tượng Diêu Sư tử,

Chúng sinh trông thấy lòng hoan hỷ.

*Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Sanh trong loài người Diêm-phù-đề,

Làm người phước thiện dòng họ lớn,

Trong hàng Sát-lợi-Bà-la-môn

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Không sanh vào quốc độ biên địa,

Không mù lòa không hề xấu xí,

Sáu căn tâm tình thường đầy đủ.

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Lâm chung biết thân mạng đời trước,

Thấy đức Phật ở trước mắt mình,

Không cảm thấy nỗi khổ lúc chết.

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Am bậc Đại vương danh tiếng nhất,

Là Chúa tể cai quản khắp nơi,

Đi lại bằng vòng vàng lượt nhanh.

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Gọi là nhân làm Thiên Đế Thích,

Thần túc chủ quản đứng thứ hai,

Ba mươi ba cõi Trời tôn trọng.

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Nhờ đây vượt qua khỏi Dục Giới,

Làm bậc Phạm vương cõi Phạm Thiên,

Ca di-Phạm Thiên đều cung kính.

Phước báo làm hình tượng đức Phật,

Thọ tưởng phước báo đúng như vậy.

Nếu có thể thực hiện khắc vẽ,

Trời đất còn có thể tính được,

Phước báo này không thể suy lường,

Vì thế cho nên cúng dường Phật,

Hoa hương và các loại hương xoa,

Hương đốt-hương xông cùng tâm hương,

Cúng dường Đại Sĩ tâm thành kính,

Được phước thiện lậu tận vô tri”.

Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông: Sanh nội viện Đâu Suất Thiên

Trong thành Xá-vệ có vị đại trưởng giả tên là Tu-đạt-đa, muốn tìm một nơi thắng địa thích hợp để xây dựng tinh xá dâng lên cúng Phật. Cuối cùng chỉ tìm được khu vườn cây của thái tử Kỳ-đà, rộng tám mươi khoảnh, cây cối um tùm xanh tốt, thật là một nơi thắng địa thích hợp nhất.

Tu-đạt-đa liền đến thưa với thái tử xin mua, thái tử nói: “Nếu đem vàng trải kín khắp vườn, ta sẽ bán cho ông.”

Tu Đạt-đa mừng nói: “Nếu vậy thì vườn này sẽ là của tôi.”

Ông lập tức cho người chở vàng đến trải, không bao lâu đã sắp kín hết khắp vườn. Thái tử thấy vậy liền nói: “Ta chỉ nói đùa thôi.”

Tu Đạt đáp: “Ngài là thái tử cao quý, không nên có lời đùa cợt.”

Liền quyết lòng mua cho bằng được, thái tử cuối cùng phải thuận ý bán. Thái tử khi ấy cũng không nhận vàng, mà dùng số vàng ấy để tạo dựng trong tinh xá một ngàn hai trăm phòng ốc. Ngay trong lúc chuẩn bị nền móng xây dựng, tôn giả Xá lợi-phất bỗng nhiên mỉm cười.

Tu-đạt-đa thưa hỏi nguyên nhân, tôn giả đáp: “Nay tuy ông chỉ vừa khởi công xây dựng tinh xá ở đây để dâng cúng lên Phật và chư tăng, nhưng phước báu đời sau sẽ được thọ hưởng cung điện nơi cõi trời đã được định rồi.”

Tôn giả nói xong liền dùng thần thông, khiến cho Tu-đạt-đa nhất thời có được thiên nhãn, cùng quan sát cung điện nơi cõi trời. Tu-đạt-đa được thấy như vậy rồi, trong lòng vô cùng hoan hỷ, liền thưa hỏi tôn giả xem cõi trời nào là an lạc nhất.

Tôn giả Xá-lợi-phất dạy: “Tầng trời thứ tư của cõi Dục là cung trời Đâu-suất, hiện có Bồ Tát Di-lặc đang thuyết pháp, chính là nơi an lạc nhất.”

Trưởng giả Tu-đạt-đa liền nói: “Con xin phát nguyện sinh về cõi trời ấy.”

Lúc tinh xá xây dựng hoàn thành, đức vua cùng các quan đại thần, nhân dân, cả thảy hơn một trăm tám mươi vạn người, cùng đến thành Vương Xá cung thỉnh đức Phật và chư tăng. Khi đức Thế Tôn quang lâm, hào quang chiếu sáng khắp nơi, nhạc trời tự nhiên vang lên, nơi thế gian trống không người đánh cũng tự nhiên vang tiếng, bao nhiêu người mù, điếc, câm, ngọng đều tự nhiên được sáu căn đầy đủ như người bình thường. 

(Trong Kinh điển thường nói đến “Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên” (Vườn ông Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ-đà), chính là nơi này. Do khi bán vườn cho trưởng giả Tu-đạt-đa, thái tử có giao ước chỉ bán đất vườn, không bán cây cối, rồi lại mang tất cả cây cối trong vườn ấy dâng lên cúng dường Phật, nên gọi là “Kỳ thọ” (cây của thái tử Kỳ-đà). Trưởng giả Tu-đạt-đa vốn thường chu cấp cho những người nghèo khổ, cô độc, nên được người đời xưng tụng là Cấp Cô Độc. Nhân đó mà khu vườn do ông dâng cúng được gọi là “vườn Cấp Cô Độc”.)

Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông: Phước báo lớn lao

Sau khi đức Phật Ca-diếp nhập Niết-bàn, có bảy ngôi tháp được xây dựng để thờ phụng xá-lợi Phật. Sau nhiều năm, các tháp ấy hư hỏng, không ai tu sửa. Có một vị trưởng giả thấy vậy liền bảo mọi người rằng: “Rất khó được sinh vào thời có Phật pháp, lại cũng rất khó được sinh làm người. Tuy được làm người, nhưng nếu sinh vào những nơi xa xôi hẻo lánh chậm phát triển, hoặc sinh vào nhà tà kiến, ắt không khỏi bị đọa lạc. Nay chúng ta được sinh vào thời còn có Phật pháp, không thể để luống mất nhân duyên tốt đẹp này.”

Nói rồi liền hướng dẫn 93.000 người khác, cùng tu sửa các tháp Phật. Họ lại cùng nhau phát lời nguyện rằng: “Nguyện cho đời sau không rơi vào ba đường dữ, tám hoàn cảnh khó tu tập Phật pháp. Nguyện được gặp đức Phật Thích-ca ra đời, trong Pháp hội đầu tiên thảy đều được độ thoát.”

Về sau, tất cả những người này sau khi mạng chung đều được sinh lên cõi trời. Cuối cùng được gặp đức Phật Thích-ca xuất thế, quả đúng như lời phát nguyện ngày trước.

Đức Phật kể lại chuyện này xong lại dạy rằng: “Vị trưởng giả đứng đầu ngày ấy, nay chính là đức vua Bình Sa nước Ma Kiệt-đề. Còn 93.000 người cùng tu sửa tháp Phật ngày xưa, nay đều ở trong số những người được gặp Phật, nghe pháp.” 

Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông: Chư Thiên rải hoa cúng dường

Thuở xưa có người nông dân xây dựng một căn phòng nhỏ. Ông dâng cúng cho một vị tỳ-kheo đã chứng quả A-la-hán, hiệu là Ly Việt. Căn phòng nhỏ đến mức chỉ vừa đủ cho ngài tạm đặt thân nghỉ ngơi. Người ấy thấy vậy liền sửa dọn chung quanh căn phòng cho ngài đi kinh hành.

Về sau, người nông dân ấy qua đời liền được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Được sống trong một cung điện rộng vuông vức, mỗi bề 4.000 dặm. Người ấy tự biết phước báo được hưởng đó là do nhân duyên đời trước đã xây dựng căn phòng nhỏ cúng dường vị tỳ-kheo chứng quả A-la-hán, liền mang hoa tươi cõi trời đến rải xuống cúng dường nơi căn phòng vị tỳ kheo Ly Việt cư ngụ, khấn rằng: “Ta ngày xưa bất quá chỉ xây dựng một căn phòng nhỏ vách đất sơ sài. Không ngờ ngày nay được hưởng phước báo lớn lao như thế này. Hôm nay đặc biệt mang hoa đến đây rải xuống cúng dường.”

Ngài Xá-lợi-phất có lần nhìn thấy một vị thiên nhân đến rải hoa lên xác chết. Thấy Thiên Nhân hết sức cung kính, Ngài liền hỏi nguyên do. Vị thiên nhân đáp: “Đây chính là thân xác đời trước của con. Lúc con còn sống, nhờ có thân này để hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính sa-môn, làm nhiều việc lành. Nhờ đó nên nay được hưởng phước cõi trời, nên con rải hoa cúng dường thân này.”

Không bao lâu sau, ngài lại thấy vô số quỷ dữ, mỗi con quỷ ấy đều dùng roi quất vào một xác chết. Ngài thấy vậy liền đến hỏi nguyên do. Các quỷ đều đáp rằng: “Đây chính là thân xác đời trước của con. Lúc còn sống, do thân này làm những việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, ngỗ nghịch với cha mẹ, hủy báng Tam bảo, khiến cho ngày nay phải chịu đủ các khổ não, nên con giận mà dùng roi đánh.”

Xét như trên thì có thể hiểu được việc thiên nhân đến rải hoa lên căn phòng của tỳ-kheo Ly Việt để cúng dường vậy.

Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông: Vợ chồng cùng sanh Thiên

Trong thành Xá-vệ có một vị trưởng giả từng xây dựng chùa chiền, tháp Phật. Sau khi ông qua đời liền được sinh lên cõi trời. Người vợ thương nhớ chồng, thường đến quét dọn ngôi chùa do chồng bà xây dựng trước đây. Một hôm, người chồng từ xa lên tiếng nói với bà rằng:

“Ta là chồng của nàng ngày trước. Nhờ công đức xây dựng chùa nên đã được sinh lên cõi trời. Vì thấy nàng luôn thương nhớ ta nên đặc biệt từ cõi trời giáng hạ xuống đây. Chỉ tiếc vì thân người ô uế chẳng được thanh tịnh như chư thiên, nên chúng ta không thể gần nhau được nữa. Nếu nàng vẫn muốn làm vợ ta thì nên thường cúng dường Phật và chư Tăng. Nên siêng quét dọn chùa chiền tháp Phật, phát nguyện được sinh về cùng một cõi trời với ta.”

Người vợ làm theo đúng như lời dạy. Sau bà mạng chung quả nhiên được sinh lên cùng một cõi trời ấy, cùng nhau nối nghĩa vợ chồng. Cả hai cùng đến lễ Phật, được đức Phật thuyết pháp cho nghe, liền chứng quả Tu-đà-hoàn.

Trong Kinh có dạy rằng: “Quét chùa trong khắp một cõi Diêm-phù-đề không bằng quét một ngôi tháp Phật chỉ lớn bằng bàn tay.” Cho nên, công đức quét tháp Phật là hết sức lớn lao. 

Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông: Sanh Thiên

Trong thành Xá-vệ có hai vợ chồng hết sức kính tin Tam bảo. Khi họ còn chưa có đứa con nào với nhau thì người vợ đã mất sớm. Bà được sinh lên làm thiên nữ trên cõi trời Đao-lợi, thân thể vô cùng đoan nghiêm xinh đẹp không gì sánh bằng. Khi ấy, vị thiên nữ khởi lên ý nghĩ: “Không biết trong cõi người có ai là người xứng đáng để làm chồng mình?”

Nghĩ rồi liền dùng thiên nhãn quán xét, thấy người chồng cũ xuất gia thành một vị tỳ-kheo, tuổi tác cũng đã cao, ngày ngày lo việc quét dọn chùa chiền, tháp Phật. Thiên nữ liền phóng chiếu hào quang cõi trời, soi đến chỗ người chồng cũ khiến cho ông được nhìn thấy, khuyên ông hãy tinh tấn tu hành để ngày sau được sinh lên cõi trời, lại cùng nhau kết thành chồng vợ.

Vị tỳ-kheo nghe biết người vợ trước đây của mình giờ đã được sinh lên cõi trời, lại càng tu tập tinh tấn hơn nữa. Thời gian sau, thiên nữ lại hiện đến, thấy vậy nói rằng: “Ngày nay đức hạnh của ngài đã vượt xa tôi. Tôi thật không thể làm vợ ngài được nữa.” Vị tỳ-kheo nghe thiên nữ nói vậy thì càng tu tập tinh tấn nhiều hơn nữa. Cuối cùng ông chứng đắc quả A-la-hán.

(Vì phước đức và nghiệp báo phải tương đồng với nhau mới có thể kết duyên chồng vợ. Cho nên có thể thấy rằng việc người vợ bao giờ cũng phải nương theo chồng, cùng nhau chia sẻ vinh nhục sang hèn. Ấy đều là do nghiệp đời trước chiêu cảm mà thành.) 

Công đức xây Chùa, tạc Tượng, đúc Chuông: Hiến đất xây Chùa

Vào đời Bắc Tống có vị cư sĩ tên Phạm Trọng Yêm, tên tự là Hy Văn. Ông suốt đời thường rộng làm đủ mọi việc thiện, dốc lòng tin sâu Phật pháp. Khi làm quan, mỗi lần nhận chức ở bất cứ đâu, ông đều bỏ tiền ra xây dựng chùa chiền, tạo điều kiện khuyến khích người khác xuất gia tu hành, đem lòng tôn kính mà làm hưng thịnh Tam bảo. Phạm Trọng Yêm cùng với hai vị thiền sư Lang Gia Huệ Giác và Tiến Phước Thừa Cổ có giao tình đạo vị hết sức mật thiết.

Hồi còn trẻ, Trọng Yêm có lần đến chùa đọc sách tại núi Trường Bạch, tình cờ phát hiện một chỗ chôn giấu vàng. Ông che kín chỗ ấy lại mà đi, không động đến một mảy may. Sau này ông ra làm quan rồi, mới đến chỉ cho chư tăng trong chùa nơi giấu vàng ấy. Ông bảo các vị dùng vàng để xây dựng, tu sửa lại chùa.

*Có lần ông vâng mệnh đến Hà Đông truyền đạt lệnh vua và phủ dụ quân dân địa phương. Tình cờ ông gặp được một bản kinh Phật cổ xưa rất quý, tên là Thập lục La-hán nhân quả tụng. Ông đích thân viết lời tựa, trao cho thiền sư Huệ Triết để lưu hành. Những năm về già, ông dùng nhà ở của mình sửa sang lại thành một ngôi chùa, lấy tên là chùa Thiên Bình. Sau lại cung thỉnh thiền sư Pháp Viễn ở Phù Sơn đến trụ trì.

Vào đời vua Tống Nhân Tông, ông được thăng chức quan Khu mật, tham gia việc chính sự quốc gia. Sau khi ông mất, vua truy phong tước Sở Quốc công, ban thụy hiệu là Văn Chính. Con cháu đời sau đều nối nhau vinh hiển, thành đạt.

Theo An Sĩ Toàn Thư

loading...