Sống an vui

Cuộc sống bi thương của động vật nuôi

Thứ bảy, 09/02/2023 11:09

Yuval Noah Harari, nhà sử học nổi tiếng toàn cầu với những tác phẩm kể về lịch sử loài người có một bài viết về cuộc sống bi thương của động vật nuôi, lý do chính khiến ông trở thành một người ăn thuần chay.

Audio

Có thể nói rằng các loài động vật là nạn nhân chính của lịch sử, và việc đối xử với động vật được thuần hóa trong các trang trại công nghiệp có lẽ là tội ác tồi tệ nhất trong lịch sử. Trên con đường tiến bộ của con người là rải rác vô số xác động vật bị giết. Thậm chí hàng chục ngàn năm trước, tổ tiên thời đồ đá của chúng ta đã phải chịu trách nhiệm cho một loạt các thảm họa sinh thái.

Harari thuan chay
Sử gia Harari lựa chọn lối sống thuần chay vì cảm nhận được nỗi đau khổ các loài vật nuôi

Khi những người đầu tiên đến Úc khoảng 45.000 năm trước, họ đã tiến hành tiêu diệt 90% động vật loại lớn. Đây là tác động đáng kể đầu tiên của người cổ đại lên hệ sinh thái của hành tinh. Và đó không phải là lần cuối cùng. Khoảng 15.000 năm trước, khi con người tiến vào châu Mỹ, họ đã xóa sổ khoảng 75% động vật có vú. Vô số loài khác biến mất khỏi châu Phi, châu Âu, châu Á và các hòn đảo xung quanh.

Các ghi chép khảo cổ của các quốc gia khác trên thế giới cũng kể cùng một câu chuyện buồn như thế. Vở kịch mở màn với một cảnh cho thấy một quần thể động vật lớn phong phú và đa dạng, không có bất kỳ dấu vết nào của con người. Trong cảnh hai, con người xuất hiện, được chứng minh bằng xương hóa thạch, mủi giáo và lửa trại (hình như là vậy). Cảnh ba nhanh chóng theo sau, trong đó đàn ông và phụ nữ làm chủ tình hình và hầu hết các động vật lớn, cùng với nhiều con nhỏ của chúng biến mất. Nhìn chung, con người đã tiêu diệt khoảng 50% trong số tất cả các động vật có vú trên cạn trước khi họ trồng cánh đồng lúa mì đầu tiên, chế tạo công cụ bằng kim loại và viết văn bản đầu tiên.

Cột mốc quan trọng tiếp theo trong quan hệ giữa con người và động vật là cuộc cách mạng nông nghiệp: Quá trình con người từ những người săn bắn hái lượm du mục thành nông dân sống trong các khu định cư lâu dài. Nó liên quan đến sự xuất hiện của một dạng sống hoàn toàn mới trên Trái đất: Động vật được thuần hóa. Ban đầu, sự thay đổi này của con người không tác động mấy đến thiên nhiên, vì con người chỉ thuần hóa được ít hơn 20 loài động vật có vú và chim, so với hàng ngàn loài vẫn còn hoang dại. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, cuộc sống định cư của con người ngày càng trở thành chuẩn mực hơn thì số loài được thuần hóa để phục vụ cho con người cũng nhiều hơn. Ngày nay, hơn 90% loài động vật lớn nhỏ đã được thuần hóa. Ví dụ như con gà chẳng hạn. Mười ngàn năm trước, chúng là một loài chim quý hiếm chỉ giới hạn trong những hốc đá nhỏ ở Nam Á. Nhưng ngày nay, hàng tỷ con gà được nuôi trên hầu hết các lục địa và hải đảo. Gà có lẽ là loài chim phổ biến nhất được thuần hóa trong biên niên sử của hành tinh Trái đất, kế đó là heo và bò. Than ôi, những loài được thuần hóa đã phải trả giá cho sự tiến bộ của con người. Vương quốc động vật được biết đến với nhiều loại đau đớn và khổ sở trong hàng triệu năm, nhưng cuộc cách mạng nông nghiệp của con người đã tạo ra những loại đau khổ hoàn toàn mới, còn tệ hại hơn lúc chưa được thuần hóa.

Thoạt đầu, động vật được thuần hóa có vẻ tốt hơn nhiều so với anh em họ và tổ tiên hoang dã của chúng. Những con trâu rừng dành nhiều ngày để tìm kiếm thức ăn, nước và nơi trú ẩn và liên tục bị đe dọa bởi sư tử, ký sinh trùng, lũ lụt và hạn hán, giờ được hưởng sự chăm sóc và bảo vệ của con người. Người ta cung cấp cho bò và bê thức ăn, nước và nơi trú ẩn, điều trị bệnh và bảo vệ chúng khỏi những kẻ săn mồi và thiên tai. Tuy vậy, hầu hết những con bò và bê sớm muộn gì cũng thấy mình trong lò mổ. Điều này cũng không tốt hơn gì việc bị nuốt bởi một con sư tử. Nanh sư tử và lưỡi dao thép có thể nói là cái nào tốt hơn cái nào không?

Ấy vậy mà, cái điều làm cho sự tồn tại của động vật nơi trang trại đặc biệt tàn nhẫn không chỉ là cái chết mà là cách chúng sống. Một mặt, con người muốn thịt, sữa, trứng, da, sức mạnh cơ bắp của động vật và giải trí; mặt khác, con người phải đảm bảo sự tồn tại và sinh sản lâu dài của chúng. Điều này sẽ bảo vệ con vật khỏi sự khỏi bị hành hạ quá đáng. Ví dụ như nếu một người nông dân vắt sữa bò mà không cung cấp cho nó thức ăn và nước uống, việc sản xuất sữa sẽ giảm dần và con bò sẽ nhanh chóng chết. Thật không may, con người có thể gây ra đau khổ khủng khiếp cho con vật theo những cách khác, ngay cả khi đảm bảo sự sống sót và sinh sản của chúng. Con người nhốt động vật trong những chiếc lồng nhỏ xíu đến nỗi chúng không thể di chuyển, cắt xén sừng và đuôi của chúng, tách mẹ ra khỏi con cái, tước đoạt những nhu cầu về thể chất, tình cảm và xã hội của con vật. Các con vật đau khổ rất nhiều, nhưng chúng vẫn phải sống và sinh sản cho con người.

Gia súc hoang dã cổ đại là động vật xã hội. Để tồn tại và sinh sản, chúng cần giao tiếp, hợp tác và cạnh tranh hiệu quả. Gia súc hoang dã phải học các kỹ năng xã hội cần thiết thông qua vui chơi. Chó con, mèo con, bê và trẻ em đều thích chơi bởi vì sự tiến hóa đã tạo ra sự thôi thúc này trong chúng. Trong tự nhiên, chúng cần chơi. Nếu chúng không chơi, chúng sẽ không học được các kỹ năng xã hội quan trọng để sinh tồn. Điều gì xảy ra khi những người nông dân bây giờ lấy một con bê non, tách nó ra khỏi mẹ, nhốt nó vào một cái chuồng nhỏ, tiêm vắc-xin phòng bệnh cho nó, cung cấp cho nó thức ăn và nước uống, và khi nó đủ tuổi, thụ tinh nhân tạo bằng tinh trùng của con bò đực? Từ góc độ khách quan, con bê này không còn cần sự ràng buộc của mẹ hoặc bạn chơi để tồn tại và sinh sản. Tất cả các nhu cầu của nó đang được chăm sóc bởi con người. Nhưng từ góc độ chủ quan, con bê vẫn cảm thấy một sự thôi thúc mạnh mẽ để gắn kết với mẹ và chơi với những bạn bê khác. Nếu những thôi thúc này không được thực hiện, con bê sẽ phải chịu đựng rất nhiều. Đây là bài học cơ bản của tâm lý học tiến hóa: Một nhu cầu được định hình từ hàng ngàn thế hệ trước vẫn tiếp tục được cảm nhận một cách chủ quan ngay cả khi nó không còn cần thiết cho sự sống còn và sinh sản trong hiện tại. Đáng thương thay, cuộc cách mạng nông nghiệp đã cho con người sức mạnh để đảm bảo sự sống sót và sinh sản của động vật được thuần hóa trong khi bỏ qua những nhu cầu chủ quan của chúng. Do đó, động vật được thuần hóa là những động vật thành công nhất trên thế giới, đồng thời chúng cũng là những động vật khốn khổ nhất từng tồn tại.

Không dừng lại ở đó, cuộc sống của các con vật trở nên tồi tệ hơn trong vài thập kỷ gần đây, khi nông nghiệp truyền thống nhường chỗ cho nông nghiệp công nghiệp. Trong các xã hội truyền thống, con người chưa có sự hiểu biết về sinh hóa, di truyền, động vật học và dịch tễ học thì quyền hạn thao túng của họ bị hạn chế. Trong các ngôi làng thời trung cổ, gà chạy tự do giữa các ngôi nhà, mổ hạt và giun từ đống rác và đẻ nơi nào chúng thích. Nhưng khi khoa học hiện đại đã giải mã được bí mật của cơ thể sinh vật, virus và kháng sinh thì con người có thể khiến động vật phải chịu những điều kiện sống khắc nghiệt. Với sự trợ giúp của vắc-xin, thuốc men, kích thích tố, thuốc trừ sâu, hệ thống điều hòa không khí và máy cho ăn tự động, giờ đây con người có thể nhồi nhét hàng chục ngàn con gà vào chuồng nhỏ, và sản xuất thịt và trứng với số lượng chưa từng có. Trong năm 2009, có 1,6 tỷ con chim hoang dã ở châu Âu cho tất cả các loài. Cùng năm đó, ngành công nghiệp thịt và trứng châu Âu đã nuôi 1,9 tỷ con gà. Nhìn chung, các động vật được thuần hóa trên thế giới nặng khoảng 700 triệu tấn, so với 300 triệu tấn đối với con người. Số phận của động vật trong các cơ sở công nghiệp như vậy đã trở thành một trong những vấn đề đạo đức cấp bách nhất của thời đại chúng ta. Hàng chục tỷ con vật, mỗi con có một thế giới cảm giác và cảm xúc phức tạp, nhưng sống và chết trên dây chuyền sản xuất công nghiệp. Bốn mươi năm trước, nhà triết học đạo đức Peter Singer đã xuất bản cuốn sách kinh điển Animal Liberation (Giải phóng loài vật), trong đó Singer cho rằng ngành nông nghiệp hiện đại chịu trách nhiệm cho nhiều đau đớn và khổ sở hơn tất cả các cuộc chiến của lịch sử cộng lại.

Ngày nay cộng đồng khoa học đã sử dụng những kiến thức nghiên cứu khoa học về động vật để phục vụ cho cuộc sống của họ hiệu quả hơn trong dịch vụ công nghiệp. Những nghiên cứu này cũng đã chứng minh rằng động vật cũng là những sinh vật có các mối quan hệ xã hội phức tạp và mô hình tâm lý tinh vi. Chúng có thể không thông minh như con người chúng ta, nhưng chúng chắc chắn biết đau đớn, sợ hãi, cô đơn, cũng như biết đau khổhạnh phúc. Với khả năng của con người hiện nay, con người có thể gây hại hoặc mang lại lợi ích cho các loài động vật. Trong 4 tỷ năm, sự sống trên Trái đất bị chi phối bởi chọn lọc tự nhiên. Nhưng bây giờ thì nó bị chi phối ngày càng nhiều bởi thiết kế thông minh của con người. Công nghệ sinh học, công nghệ nano và trí tuệ nhân tạo sẽ sớm cho phép con người định hình lại cuộc sống cũng như ý nghĩa của nó. Mong rằng khi chúng ta thiết kế thế giới này, chúng ta nên tính đến phúc lợi của tất cả chúng sinh, bao gồm cả các loài vật chứ không chỉ riêng loài người.

Thích Trung Hữu dịch

(Theo The Guardian)

loading...