Kinh Phật
Đạo đức Phật giáo trong kinh A Hàm (I)
Thứ năm, 11/03/2021 12:15
Đề cập đến đạo đức là đề cập đến vấn đề con người. Cho nên một nền đức nào định hình bao giờ cũng dựa trên cơ sở hình thành cộng đồng xã hội, sống theo những quy tắc chuẩn mực do con người xã hội đó thiết lập.
Suy cho cùng thì đạo đức của con người thực sự là tổng hòa các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với gia đình và xã hội. Trong Niên luận này đề cập một số vấn đề: Nền tảng của đạo đức, cơ sở xây dựng đạo đức, đạo đức thể hiện các mối quan hệ..vv. của Phật giáo quan kinh A Hàm.
Giới luật – nền tảng của đạo đức
Giới luật của Phật giáo được xây dựng trên quan niệm rộng rãi về tình yêu phổ quát, thương xót đối với tất cả mọi loài, là nền tảng đạo đức căn bản của giáo lý đạo Phật.
Chữ Giới trong Giới bản Ba la đề mộc xoa (Pràtimoksa), có nghĩa là Biệt giải thoát, hay Tuỳ thuận giải thoát. Biệt giải thoát là giải thoát từng phần, giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít; Tuỳ thuận giải thoát là giải thoát tuỳ thuộc vào quả hữu vi hay quả vô vi của người hành trì.
Giới (Sìla) thường được hiểu là giới hạnh, điều luật đạo đức, ngăn ngừa điều quấy, chấm dứt việc ác (phòng phi chỉ ác), hoặc không làm các điều ác, làm các việc thiện (chỉ ác tác thiện).
Qua các định nghĩa trên, thì giới giúp chúng ta đạt được hai mục đích: không làm các điều ác, làm những việc thiện và đạt đến mục tiêu thứ ba là giữ gìn tâm ý thanh tịnh. Như vậy, Giới là nền tảng của đạo đức luận Phật giáo.
Chư Phật đản sinh… Liên hệ giữa kinh A Hàm và Thiền tông
Đối với hệ thống giới luật của Phật giáo, thì trong khoảng mười hai năm đầu sau khi thành đạo, Đức Phật không chế giới điều cụ thể mà chỉ nhắc nhở các đệ tử giữ gìn giới luật bằng một bài kệ tổng quát:
Giữ miệng ý thanh tịnh
Thân hành cũng thanh tinh
Thanh tịnh ba hạnh này
Tu hành đạo tiên nhân.
Về sau, từ năm thứ mười ba trở đi trong Tăng đoàn dần dần có những việc hữu lậu xảy ra làm não loạn, cản trở việc tu tập của các đệ tử, bị người thế gian cơ hiềm gây lên ảnh hưởng không tốt cho Tăng đoàn, Đức Phật mới bắt đầu chế giới. Từ đây giới luật bắt đầu được hình thành, mỗi khi có đệ tử nào vi phạm điều gì thì Đức Phật lại cho họp chúng lại, tuỳ theo mức độ vi phạm trong từng hoàn cảnh, thời gian cụ thể mà chế giới. Giới luật của Đức Phật có rất nhiều và được chế rải rác trong suốt bốn mươi chín năm. Sau khi Ngài nhập Niết Bàn thì các vị đệ tử mới kết tập thành Luật tạng và phân thành nhiều loại tuỳ theo nội dung, hoặc tuỳ theo tính chất của giới để áp dụng cho từng loại đối tượng cụ thể. Như giới tại gia gồm 5 giới, 8 giới; giới xuất gia có 10 giới Sa di – Sa di ni, 250 giới Tỷ khiêu, 348 giới Tỷ khiêu ni..vv.
Tuy phân chia nhiều giới như vậy, nhưng đều tập trung vào chức năng kiểm soát lời nói và việc làm của mỗi người, hay nói cách khác là thanh lọc thân – khẩu – ý. Mục đích là để biểu thị sắc thái đạo đức, ngăn ngừa những tội lỗi từ hành động cho đến ý niệm của các đệ tử, ngõ hầu Thánh hoá đời sống tu hành của họ, làm mô phạm cho thế gian, khiến cho người chưa có lòng tin với Phật pháp phát khởi được lòng tin. Một vị Tỷ khiêu giới hạnh thanh tịnh sẽ là mảnh đất tốt tăng trưởng các thiện pháp, là nền tảng để tiến bộ tâm linh tiến đến giải thoát: “ Tỷ khiêu nào giữ giới thì thường không có sự hối hận, hoan duyệt, hoan hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thực, nhàm chán, vô dục, giải thoát; nếu đã giải thoát thì liền đắc Niết Bàn”.
Đức Phật với những người trẻ tuổi trong kinh A Hàm
Giáo lý nhân quả, nghiệp báo – cơ sở xây dựng đạo đức
Định luật nhân quả, cũng như hệ luận của nó là nghiệp báo trong hình thức thô sơ nhất vốn do nền đạo học Dravidien phát kiến từ trước thời Đức Phật cả ngàn năm. Đến khi Đức Phật ra đời, tu hành thành đạo thì định luật này được diễn thuyết thành lý duyên sinh, và chính trên căn bản duyên sinh mà Ngài chức đắc chân lý thực tại vạn pháp vô ngã. Tại đây giáo lý Đức Phật đã hiển nhiên minh định luật nhân quả đóng một vai trò quan trọng đặc biệt.
Định luật Nhân quả, là một định luật cắt nghĩa quá trình hình thành của vạn hữu chẳng có gì là cố định, chẳng có gì là thường còn, chẳng phải tự nhiên mà có, hay do ý muốn của một đấng siêu nhiên nào đó khải thị. Theo định luật nhân quả, tất cả vạn hữu chẳng qua đều là vì cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh. Hết thảy đều tương duyên, hỗ trợ nhau mà thành, cái này là nhân, đổi lại cái kia là quả. Nói tương duyên nghĩa là giai đoạn trước thế nào thì giai đoạn sau thế ấy, giai đoạn trước là nhân, đổi lại gọi giai đoạn sau là quả. Tất cả vạn hữu vũ trụ trong thời gian vô cùng, không gian vô tận này đều sinh trưởng vận hành, chuyển dịch, kết thúc theo mối tương quan tương duyên với nhau trong vòng định luật nhân quả.
Định luật nhân quả chi phối hết thảy mọi sự vật hiện tượng trên mọi phương diện. Từ những pháp cụ thể như con người, muôn vật cho đến những pháp trừu tượng như các mối tương quan giữa người với người, người với thiên nhiên, mọi phạm vi luân lý, kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội..vv. Tất cả đều diễn tiến trong vòng định luật nhân quả và do nhân quả chi phối. Cho nên luật nhân quả chính là chân lý hiện thực. Người ta có thể đi ngược sự sống, nhưng không thể đi ngược với luật nhân quả.
Sáu điều cần biết về đạo đức Phật giáo Việt Nam
Khi đã hiểu lý nhân quả, chúng ta không còn tin ở định mệnh hay ngẫu nhiên, mà có lòng tin ở chính bản thân mình, tin vào năng lực sáng tạo của con người, con người có đủ khả năng xoay chuyển cuộc đời. Tất cả những việc tốt xấu, họa phúc của con người đều do chính con người tạo ra. Do đó để có cuộc sống hạnh phúc an lạc thì phải tạo ra cái nhân tốt lành, nhận thức sâu sắc được vấn đề này, đã làm cho con người sống tốt hơn và tin tưởng vào kết quả của việc sống tốt đó, như người Việt Nam có câu:
Ai ơi cứ ở cho lành
Kiếp này không gặp để dành kiếp sau.
Từ những nhận thức về lợi ích của giáo lý nhân quả như trên đã chứng minh rằng lý nhân quả là cơ sở để xây dựng một nền đạo đức cơ bản của Phật giáo. Nó xây dựng một nhân sinh tốt đẹp, cải tạo một xã hội tươi vui, hướng dẫn con người thực hành đến đích giải thoát giác ngộ. Người thực hành theo giáo lý nhân quả đem lại lợi ích chân thực cho chính mình và cứu kính tối hậu của sinh mạng con người. Song hành với giáo lý nhân quả là giáo lý nghiệp báo. Vậy nghiệp báo là gì?
Tiếng Phạn Karma, Trung Quốc dịch là Nghiệp. Theo Phật giáo thì Nghiệp là chỉ cho những lời nói, hành động có ý thức. Tức là những lời nói, hành động cố ý, do ý muốn của tâm tốt hay xấu, lành hay dữ, kết quả đem lại cho con người hạnh phúc hay đau khổ là do ý niệm của tâm lành hay tâm ác. Như lời Đức Phật dạy:
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng chẳng rời hình.
Qua lời dạy trên, chúng ta thấy nếu như lời nói, hành động với tâm lành thì sẽ được an lạc hạnh phúc; ngược lại nếu như lời nói và hành động với tâm xấu ác thì sẽ phải đau khổ. Tất cả đều do tự thân con người tạo cho mình cuộc sống an lạc hay đau khổ, chứ hạnh phúc hay đau khổ không phải do một đấng Tạo hóa nào có thể ban phúc hay giáng họa cho con người. Hơn nữa, cần phải hiểu rằng “gieo gì sẽ gặt nấy”, gặt ở chỗ này hay chỗ khác, lúc này hay lúc khác thì sẽ đều phải gặt. Cuộc sống con người chính là tập hợp của nghiệp trong đời quá khứ, cộng với nghiệp hiện tại do con người đã và đang tạo ra. Trong kinh Ví Dụ Hạt Muối – Trung A Hàm, Đức Phật dạy: “Tùy theo nghiệp sở tác của mỗi người mà thụ lấy quả báo”.
Triết lý Duyên khởi xây dựng đạo đức Phật giáo trong kinh doanh
Như vậy, con người phải chịu trách nhiệm với bản thân mình, cũng như với xã hội về những lời nói, hành động của mình. Trong cuộc sống hiện tại, dẫu muốn hay không muốn, đối với nghiệp quá khứ chúng ta phải nhận lĩnh như một di sản bắt buộc, để cộng thêm vào gia tài hiện nghiệp. Cái hiện nghiệp của chúng ta ngày nay, khác hơn cái nghiệp quá khứ ở chỗ chúng ta hoàn toàn làm chủ nó, có trọn quyền chuyển hướng chúng về đâu theo ý muốn của mình, bởi con người là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Chư Phật đã tận dụng những giai đoạn hiện tại đó mà dạy cho chúng ta phương pháp chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Nghiệp của chúng ta trong hiện tại không thể chia sẻ cho ai được, nó như thế nào đều do chúng ta quyết định, tâm ý khởi động điều lành sẽ dẫn chúng ta đến cảnh giới Niết Bàn; ngược lại tâm ý khởi động điều ác là động lực đẩy chúng ta vào địa ngục.
Phật giáo căn cứ vào nghiệp báo để chứng giải hằng hà sa số dị đồng trong toàn thể chúng sinh. Chúng sinh có muôn hình vạn trạng khác nhau như sướng khổ, giàu nghèo, sang hèn..vv. là bởi chúng sinh tạo nghiệp khác nhau. Nhận thức được điều này, những người tốt sẽ sống tốt hơn, những người chưa tốt sẽ biết cải ác làm lành, hồi tâm hướng thiện. Đó là tinh thần giáo dục rất lành mạnh, tích cực của Phật giáo qua thuyết nghiệp báo để giáo dục con người. Vì thế giáo lý Nghiệp báo mang ý nghĩa đạo đức luận lý, là cơ sở để xây dựng đạo đức theo quan điểm Phật giáo.
(Còn tiếp)