Sách Phật giáo

Giải mã Kinh Niệm Xứ chặng đường giải thoát khổ đau (P.1)

Thứ hai, 09/05/2016 09:04

Như vậy tỉnh giác có hai chức năng song hành: tỉnh thức và giác tri. Tỉnh thức trên mọi oai nghi, vận hành của thân; và giác tri ngay nếu có một niệm phát khởi trong tâm. Khi thực hiện tốt sự tỉnh thức trên các thân hành thì cũng sẽ dễ dàng giác tri ngay khi một niệm phát khởi trong tâm. Điều này giống như một người lính biên giới nếu biết tỉnh thức canh phòng cẩn mật, chú tâm quán sát, thì sẽ có khả năng phát hiện ngay kẻ thù khi chúng vừa xuất hiện.

Lời tựa

Từ xưa đến nay, pháp môn Bốn Niệm Xứ đã được nhiều thế hệ phật tử thay nhau thọ trì và tu tập. Thế nhưng việc nhận thức được ý nghĩa cứu khổ từ Diệu Pháp này vẫn còn nhiều điều phải suy xét.

Tùy theo mỗi truyền thống, mỗi trường phái, mỗi vị thầy tổ mà pháp môn Bốn Niệm Xứ đã được truyền thừa một cách khác biệt. Điều này đã làm mất đi giá trị nhất quán của Diệu Pháp Bốn Niệm Xứ, cũng là Chánh Niệm, một chi phần trong Tám Chánh Đạo, tức Đạo Đế, tức Chân lý về con đường diệt khổ.

Nhằm làm rõ hơn ý nghĩa trợ đạo, giúp giải thoát phiền não, chứng ngộ Niết Bàn của Diệu Pháp Chánh Niệm - Bốn Niệm Xứ, bản giải mã Kinh Niệm Xứ này sẽ giải thích, chứng minh và trả lời các câu hỏi sau đây:

1. Như thế nào là Bốn Niệm Xứ với ý nghĩa thực sự “là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn”?

2. Thế nào là quán thân trên thân để đoạn diệt tham ưu do Thân kiến kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây kiến chấp sai lầm về thân cột trói vào khổ đau muôn kiếp?
 
3. Thế nào là quán thọ trên các thọ để đoạn diệt tham ưu do Giới cấm thủ kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây chấp thủ sai lầm về giới cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

4. Thế nào là quán tâm vô tham trên tâm tham để đoạn diệt tham ưu do Tham kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây tham dục bản năng cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

5. Thế nào là quán tâm vô sân trên tâm sân để đoạn diệt tham ưu do Sân kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây sân hận cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

6. Thế nào là quán tâm vô si trên tâm si để đoạn diệt tham ưu do Nghi kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây hoài nghi cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

7. Thế nào là quán pháp đối trị trên các pháp Năm triền cái để đoạn diệt tham ưu do Năm triền cái gây ra nhằm xé nát năm tấm màn ngăn che trí tuệ, tiến tới giải thoát?

8. Thế nào là quán pháp Vô thường, Khổ, Vô ngã trên các pháp Năm thủ uẩn để đoạn diệt tham ưu do Chấp mạn kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây ngã mạn cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

9. Thế nào là quán pháp đối trị trên các pháp Sáu Nội- Ngoại xứ để đoạn diệt tham ưu do Năm dục trưởng dưỡng và Hữu tham kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây tham chấp về sở hữu cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

10. Thế nào là quán pháp Tám Chánh Đạo trên pháp Tám tà đạo để đoạn diệt tham ưu do tà kiến kiết sử gây ra nhằm chặt đứt sợi dây tà kiến cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

11. Quán các pháp nào giúp đoạn trừ tham ưu do Vô minh kiết sử và ái kiết sử gây ra nhằm chặt đứt những sợi dây do vô minh và ái luyến cột trói vào khổ đau muôn kiếp?

Và nhiều câu hỏi liên quan khác nữa…

Như được biết ‘kiết sử’ là những sợi dây trói cột con người vào đau khổ đời này và đời sau, ‘năm triền cái’ là năm tấm màn ngăn che trí tuệ khiến con người phải trầm luân trong nghiệp chướng. Có chặt đứt được những sợi dây oan nghiệt này, có xé nát những tấm màn ngăn che trí tuệ mới giải thoát được khổ đau ngay trong hiện tại lẫn trong sanh tử luân hồi.

Bản giải mã này nhằm mục đích góp phần giải quyết các vấn nạn trên.

Tỳ kheo Pani Giới Pháp
***
Ghi chú: Tất cả các trích dẫn trong phần giải mã kinh Niệm Xứ (số 10, Trung Bộ I) đều y cứ theo Bộ Đại Tạng Kinh Nikāya do HT Thích Minh Châu dịch Việt từ nguyên bản Pāli, ấn hành 1992 – 2000.

- Những chữ viết tắt:

+ PC 223: Kinh Pháp Cú, kệ số 223.
+ TB1, 10:  Kinh Trung Bộ tập 1, bài kinh số 10
+ TrB1, 14: Kinh Trường Bộ tập 1, bài kinh số 14
+ It 115: Kinh Phật Thuyết Như Vậy, số 115
+ TƯ5, 314: Kinh Tương Ưng tập 5, kinh số 314
+ Ud 10: Kinh Phật Tự Thuyết, bài kinh số 10
+ Sn 214, 1109: Kinh Tập, bài kinh số 214, kệ số 1109
+ TC VII:64, tr.436: Kinh Tăng Chi, chương 7 pháp, bài kinh số 64, trang 436

- Các ký hiệu trong ngoặc […] là các trích dẫn tương đương theo hệ thống Chín tạng Thánh Kinh.
 
I. QUÁN THÂN

Chánh Kinh Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (Kiềm-ma-sắt-đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các Tỳ kheo:

- Này các Tỳ kheo.

Các Tỳ kheo vâng đáp Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn.

Thế Tôn thuyết như sau:

- Này các Tỳ kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là Bốn Niệm Xứ.

Thế nào là bốn?
 
Này các Tỳ kheo, ở đây Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

Giải Trình

1.1 Dẫn Nhập

Đoạn mở đầu nêu trên cho thấy kinh Niệm Xứ thuộc tạng kinh ‘Không Hỏi Tự Nói’ (Vô Vấn Tự Thuyết). Việc xác định các bài kinh theo hệ thống phân loại kinh tạng do Đức Phật tuyên thuyết có ý nghĩa rất quan trọng. Một Tỳ-kheo nắm được chín hệ thống này được đức Thế Tôn gọi là một vị biết được Pháp:

“Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo biết Pháp: Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký Thuyết, Phúng Tụng, Vô Vấn Tự Thuyết, Như Thị Thuyết, Bổn Sanh, Pháp Chưa Từng Có, Phương Quảng.

Này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo không biết Pháp: Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký Thuyết, Phúng Tụng, Vô Vấn Tự Thuyết, Như Thị Thuyết, Bổn Sanh, Pháp Chưa Từng Có, Phương Quảng, vị ấy ở đây không được gọi là vị biết Pháp.

Và này các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo biết Pháp: Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký Thuyết, Phúng Tụng, Vô Vấn Tự Thuyết, Như Thị Thuyết, Bổn Sanh, Pháp Chưa Từng Có, Phương Quảng; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết Pháp” (Bài kinh ‘Pháp Trí’, TC VII:64, tr.437 = [I.7.64.2])

Bên cạnh đó, trong tạng Luật, chương Verañjā, đức Thế Tôn cũng đã nêu rõ trong thời quá khứ của các Đức Phật Kakusandha, Konāgamana, và Kassapa, Phạm hạnh được tồn tại lâu dài; ngược lại trong thời của các Đức Phật Vipassī, Sikhī, và Vessabhū Phạm hạnh đã không tồn tại lâu dài.

Nguyên nhân của Phạm hạnh được tồn tại lâu dài hay không là do hệ thống chín Thánh Tạng Kinh nêu trên có được chỉ dạy chi tiết đầy đủ và giới luật Pātimokkha có được công bố hay không. Qua đó cho thấy việc xác lập các bài kinh theo hệ thống Thánh Tạng Kinh có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng và chín Tạng Thánh Kinh này tồn tại bất di bất dịch qua mọi thời của các đức Thế Tôn.

Trong hệ thống giáo pháp của Đức Phật, mỗi tạng kinh thuộc hệ thống phân loại nêu trên đều có vai trò thiết thực khác nhau. Biết phân loại kinh điển theo hệ thống này sẽ giúp cho việc nhận thức Phật pháp nói chung và từng bài kinh nói riêng được thuận lợi hơn, rõ ràng hơn.
 
Có thể xem các bài kinh trong hệ thống ‘Không Hỏi Tự Nói’ là những bài học có thứ lớp rõ ràng trong giáo án đã được lập trình sẵn của Bậc Đạo Sư. Khi cơ duyên hội đủ Đức Phật mới tuần tự tuyên giảng. Theo ý nghĩa này, Kinh Niệm Xứ là một trong những bài kinh chứa đựng các học pháp căn bản trong giáo trình Phật Pháp của đức Thế Tôn.

Những học pháp căn bản trong bài kinh Niệm Xứ là gì? Để trả lời câu hỏi quan trọng này hãy bắt đầu từ những khái niệm.

Theo định nghĩa, niệm là sự ghi nhớ, nhớ nghĩ, niệm tưởng, quán niệm; xứ là nơi, chốn, chỗ, phương hướng, phương xứ. Như vậy niệm xứ là học pháp dạy cách đặt tâm ghi nhớ, quán niệm theo các phương hướng đúng đắn. Bốn hướng đó chính là thân, thọ, tâm và pháp. Chính vì thế để thanh tịnh tâm tiến tới nhập được Chánh Định cần phải đặt tâm nhớ nghĩ theo bốn phương xứ này - tức Bốn Niệm Xứ.

Trong hệ thống giáo pháp của Đức Phật, bốn phương hướng nhớ nghĩ chân chánh hay Bốn Niệm Xứ cũng là Chánh Niệm. Chánh Niệm là một chi phần trong Tám Chánh Đạo (Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định). Tám Chánh Đạo cũng là Đạo Đế tức chân lý về con đường đoạn diệt khổ đau. Như vậy Bốn Niệm Xứ là chân lý về sự ghi nhớ chân chánh trên con đường an vui giải thoát Niết Bàn.

Một học pháp chỉ được gọi là chân lý, khi và chỉ khi, thoả mãn đầy đủ cả ba yếu tố sau đây:

1) Điều nêu lên đúng cho tất cả mọi người,
2) Đúng qua tất cả mọi thời đại, và
3) Đúng ở bất kỳ nơi nào.

Ví dụ: sanh - già - bệnh (thân và tâm) - chết được gọi là chân lý khổ đau (khổ đế) vì bất kỳ ai, trong bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ đâu cũng phải trải nghiệm qua những thực tại này và đều phải trung thực thừa nhận chúng là những khổ đau như thực.

Vì vậy Chánh Niệm - Bốn Niệm Xứ thuộc Đạo đế, tức chân lý về con đường diệt khổ, cũng phải đáp ứng được ba yếu tố trên. Người học Phật không những phải nhận thức được tính chân lý của Bốn Niệm Xứ mà còn phải tự mình chứng nghiệm để biết như thật, chứng minh để thấy như thật rằng đây thực sự là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn một cách thiết thực hiện tại.

Để thực hiện được điều trên, trước hết, cần phải phân biệt Chánh Niệm - Bốn Niệm Xứ được nhận thức và tu tập theo bốn phương xứ quán sát khác nhau, bao gồm: quán thân trên thân, quán thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm và quán pháp trên các pháp.

Đến đây, các câu hỏi cần được đặt ra:

- Như thế nào là quán thân trên thân? Quán thân gì trên thân gì?
- Như thế nào là quán thọ trên các thọ? Quán thọ gì trên các thọ gì?
- Như thế nào là quán tâm trên tâm? Quán tâm gì trên tâm gì?
- Như thế nào là quán pháp trên các pháp? Quán pháp gì trên các pháp gì?
- Các cách quán này nhằm mục đích gì? Giúp chế ngự tham-ưu và khổ đau cụ thể như thế nào?
Giải mã các đoạn kinh sau đây sẽ giúp người học Phật tuần tự trả lời các câu hỏi nêu trên.

1.2 Quán niệm hơi thở căn bản

Chánh Kinh

Và này các Tỳ kheo, thế nào là Tỳ kheo sống quán thân trên thân?

Này các Tỳ kheo, ở đây, Tỳ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt.

Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

Này các Tỳ kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: “Tôi quay dài” hay khi quay ngắn, tuệ tri: “Tôi quay ngắn”.

Cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo thở vô dài, tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra ngắn, tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân.

“Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỳ kheo, như vậy là Tỳ kheo sống quán thân trên thân.
 
Giải Trình

Yêu cầu đầu tiên để thanh tịnh tâm, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn là môi trường tu tập phải thích hợp cho tiến trình tịnh chỉ các hành. Vị Tỳ-kheo tu tập Bốn Niệm Xứ đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống không phải để hý luận, chuyện phiếm mà để thực hiện ‘sự im lặng như Thánh’ tức khẩu hành được tịnh chỉ; ngồi kiết già lưng thẳng là thân hành tịnh chỉ và an trú chánh niệm trước mặt là tiến trình làm cho ý hành tịnh chỉ.

Hơi thở là một hành thuộc thân vì vậy quán niệm hơi thở được xếp trong phần quán thân. Ngồi kiết già là cách ngồi tốt nhất cho thiền định hơi thở. Điều quan trọng hành giả cần luôn ghi nhớ là giữ lưng cho thẳng. Tư thế ngồi thẳng lưng có nhiều lợi ích trước mắt và lâu dài cho thân và cho tâm. Duy trì ý thức giữ thẳng lưng cũng là một dấu hiệu giúp hành giả biết mình còn chánh niệm tỉnh giác hay không.

Sự tịnh chỉ các hành dựa trên tu tập tỉnh giác về hơi thở của đạo Phật hoàn toàn khác với các phương pháp tu tập hơi thở của ngoại học. Người học Phật cần nhận thức rõ những sự khác biệt này để không bị rơi vào các trạng thái của tưởng do tập trung tâm đơn thuần trên hơi thở mang lại.

Quán niệm hơi thở của đạo Phật bao gồm ba nội dung chủ yếu sau đây:

- Tỉnh giác theo hơi thở: Khái niệm tỉnh giác ở đây có hai ý nghĩa song hành, ‘tỉnh’ là tỉnh thức trên hơi thở vào - hơi thở ra, và ‘giác’ là giác tri ngay nếu có niệm xen khởi để biết đó là niệm thiện hay niệm bất thiện; niệm thuộc về thân, thọ, tâm hay pháp.

- Tuệ tri hơi thở: Hành giả phải biết rõ hơi thở của mình trong trạng thái hiện tại dài hay ngắn so với bình thường. Hơi thở là một hành quan trọng của nội thân, có liên hệ mật thiết với các hành khác của thân và môi trường bên ngoài; vì vậy không phải lúc nào nhịp độ của hơi thở cũng giống nhau. Việc tuệ tri hơi thở hiện tại dài hay ngắn có ý nghĩa quan trọng liên quan tới nội dung cơ bản kế tiếp.

- Tu tập Như Lý Tác Ý theo hơi thở: Dựa trên chu kỳ hơi thở hiện tại, hành giả phải khéo léo kết hợp với các câu tác ý để hơi thở vô - ra luôn trong trạng thái tự nhiên không bị gò ép, ức chế, gián đoạn bởi các câu tác ý. Các câu tác ý theo đúng lý của chánh pháp được gọi là Như Lý Tác Ý. Tu tập hơi thở cùng với các câu Như Lý Tác Ý chính là điểm khác biệt căn bản giữa Định niệm hơi thở của Đức Phật và các phương pháp tu tập hơi thở của ngoại học như Yoga, dưỡng sinh, khí công…

Mỗi người đều có thể tự mình chứng nghiệm một nguyên lý căn bản của tâm hành, đó là trong một sát-na (khoảng thời gian ngắn nhất) tâm không thể khởi hai ý niệm cùng một lúc. Do đó khi hướng tâm tập trung trên một đối tượng này thì các niệm khác tạm thời vắng mặt. Do vậy, hành giả trong khi tu tập tỉnh giác theo hơi thở cũng có nghĩa là tập cắt đứt dòng suy tầm. Điều này đã được đức Thế Tôn nói đến trong bài kinh Chánh Giác: “Cần phải tu tập niệm hơi thở vô, hơi thở ra để cắt đứt tầm” (TC IX:1, tr.67 = [I.9.1.5]).

Trong buổi đầu, khi tâm chưa thanh tịnh, hành giả thường bị chi phối bởi các suy tầm theo hướng phiền não do dục, sân và hại khởi lên. Tích cực ngăn chặn không để các tầm ác, bất thiện này có cơ hội sanh khởi, quấy rối, làm ô nhiễm tâm là bước đầu tiên không thể thiếu trong quá trình thanh tịnh tâm.

Điều này giống như muốn yên ổn xây dựng đất nước thì công việc đầu tiên là phải tích cực ngăn chặn không cho giặc ác có cơ hội nổi loạn phá hoại. Do đó, nỗ lực thực hiện quán niệm hơi thở cũng có nghĩa là tu tập Bốn Chánh Cần, tức bốn điều chân chánh cần tinh tấn thực hiện đó là: ngăn (niệm) ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.

Tuy nhiên, việc định tâm trên hơi thở để cắt đứt tầm và ngăn niệm ác sẽ không thể thực hiện tốt nếu không duy trì được sự chánh niệm tỉnh giác theo hơi thở. Muốn chánh niệm tỉnh giác theo hơi thở được sung mãn, không có pháp nào tốt hơn là phải nương hơi thở khéo tác ý, tức Như lý tác ý: “…Này các Tỳ kheo, chánh niệm tỉnh giác có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho chánh niệm tỉnh giác? Như lý tác ý, cần phải trả lời như vậy” (bài kinh “Vô Minh”, TC X:61, tr.395 = [I.10.61]).

Vì thế, nếu chỉ tập trung tâm đơn thuần trên hơi thở mà không có Như lý tác ý sẽ khiến cho sự chánh niệm tỉnh giác đến một lúc nào đó sẽ bị muội lược. Chánh niệm tỉnh giác suy yếu sẽ khiến vị hành giả hoặc rơi vào các trạng thái vô ký (mơ màng, ngủ gục) hoặc bị các trạng thái của tưởng chi phối nên cảm nhận thấy hơi thở thanh nhẹ, nhỏ nhiệm, dao động ngắn dần đến độ như ngừng hẳn (mặc dù người khác vẫn có thể “thấy” vị hành giả còn duy trì hơi thở). ‘Thấy hơi thở chấm dứt’ trong khi thực tế nó vẫn còn, sự nhận biết này nằm trong phạm vi của tưởng tri. Cứ nhất tâm trong trạng thái của tưởng được gọi là định tưởng.

Nếu người tu thiền tiếp tục duy trì sự chú tâm đơn thuần trên các trạng thái của tưởng uẩn như vậy, sẽ đến lúc ý thức tách rời khỏi năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), hành giả sẽ đạt được các tầng thiền định vô sắc. Trong Đại Kinh Phương Quảng, ngài Xá-Lợi-Phất đã nói rõ: “ý thức thanh tịnh, không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ; hư không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; thức là vô biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì” (TB1, 43 = [Vd.1.12])

Chính vì lẽ đó Kinh Pháp Môn Căn Bản (TB1, 1 = [U.3]) xếp những hiểu biết về thiền định trong trường hợp trên vào phạm trù ‘tưởng tri vô sắc là vô sắc’. Thế nhưng nếu vị Tỳ-kheo tu theo lộ trình được Đức Phật dạy trong kinh Tiểu Không cũng có thể đạt được các tầng thiền vô sắc, cũng có thể an trú với nhiều an trú nhưng ở mức độ ‘thắng tri vô sắc là vô sắc’, sự khác biệt này sẽ được đề cập trong một dịp khác.

Như đã nói ở trên, khi tu tập Định niệm hơi thở, phương tiện hữu hiệu đầu tiên giúp tâm luôn ở trên bình diện của ý thức tỉnh giác, không bị rơi vào các trạng thái của tưởng, đó là phải tu tập hơi thở cùng với các câu Như lý tác ý. Chính vì thế trong bài kinh Ngọn Ðèn, đức Thế Tôn đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần muốn đạt được nhiều lợi ích hy hữu do Định niệm hơi thở mang lại “thời Định niệm hơi thở vô và hơi thở ra này cần phải khéo tác ý” (TƯ5, 316 = [Ve.12.8])

Và ngay trong bài kinh trước đó, khi tôn giả Arittha trình bày cách tu hơi thở của mình đơn thuần chỉ bằng sự tỉnh giác theo hơi thở vô - ra, đức Thế Tôn đã nhấn mạnh: “Ðây cũng là niệm hơi thở vô, hơi thở ra, này Arittha, nhưng Ta tuyên bố là không phải. Này Arittha, Ta sẽ nói cho Ông như thế nào là niệm hơi thở vô, hơi thở ra, được phát triển, được làm cho viên mãn. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói” (TƯ5, 314 = [Ve.12.6]). Sau đó Ngài đã dạy cho tôn giả Arittha về Định niệm hơi thở cùng với các câu Như lý tác ý.

Khéo tác ý ở đây có hai ý nghĩa:

(1) Tác ý phải theo đúng chánh lý của Chánh Pháp tức Như lý tác ý. Không khéo tác ý là những tác ý không đúng chánh lý, là những tác ý chủ quan, duy ý chí; hay còn được gọi chung là Phi như lý tác ý. Phi như lý tác ý không những không có lợi mà còn có hại.

(2) Tác ý phải dựa theo hơi thở nhưng không được gây rối loạn nhịp thở tự nhiên, nói cách khác là phải khéo nương vào nhịp điệu của hơi thở đang có để tác ý.

Có thể hiểu ý nghĩa này qua hình dung trò chơi nhảy dây của trẻ con. Hai em Thở Vô và Thở Ra cầm hai đầu sợi dây và quay nhanh hay chậm theo ý mình muốn; em thứ ba là Tác Ý phải tỉnh giác theo sợi dây và phải tuệ tri được nhịp điệu đó. Dựa vào tốc độ của vòng dây, Tác Ý phải khéo léo mới có thể nhảy vào, nhảy lên xuống, nhảy ra không bị vướng dây. Tác Ý muốn làm được như vậy, đương nhiên, ‘vị ấy phải tập’.

Ở đây hơi thở và tác ý cũng là một người, vì vậy ví dụ về người thợ quay thiện xảo của đức Thế Tôn là chính xác nhất để nói lên sự chủ động “khéo tác ý” của người tu tập Định niệm hơi thở.

Càng tu tập Định niệm hơi thở đúng cách, càng thấy khỏe mạnh; vì mỗi hơi thở vô ra luôn được điều hòa tự nhiên. Trái lại tu tập sai cách hoặc không khéo tác ý khiến hơi thở bị rối loạn, ngay sau từng buổi tập đều có thể bị các triệu chứng như khó thở, mệt nhọc, nhức đầu, tức ngực. Người tu Phật phải căn cứ vào chánh kinh Nikāya, phải tìm hỏi cho kỹ và thực hành từng bước cho đúng để sau từng buổi thiền tập đều đạt được hiệu quả thiết thực, tránh những sai lầm không thích đáng.

Tập như lý tác ý theo nhịp thở ‘cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô’, ‘cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra’ để nhắc tâm duy trì sự chánh niệm tỉnh giác trên thân nhằm giúp tâm không dao động, tán loạn. Điều này cũng có nghĩa nhắc tâm định trên thân.

Tập như lý tác ý ‘an tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô’, ‘an tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra’ để nhắc các hành thuộc thân không dao động, phải an tịnh. Đây là câu tác ý nhằm nhắc thân định trên tâm.

Do vậy, tu tập làm sung mãn Định niệm hơi thở sẽ giúp thân và tâm không dao động: “Khi vị ấy tu tập, làm cho sung mãn Định niệm hơi thở vô, hơi thở ra, nên thân không rung động, không dao động, hoặc tâm không rung động hay dao động” (TƯ5, tr.458) = [Ve.12.7]). Lại nữa, chính nhờ thân không rung động và tâm không dao động nên đắc được định không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức: “Ðối với một vị có Thiền định như vậy, này các Tỳ kheo, nhờ tu tập, nhờ làm cho sung mãn, nên thân vị ấy không rung động hay dao động, nên tâm vị ấy không rung động hay dao động. Ðối với vị Tỳ kheo ấy, được định như vậy, không có khó khăn, không có gian nan, không có mệt nhọc” (Sđd)

Ngoài các tác dụng thiết thực nêu trên, tu tập pháp Như lý tác ý trong Định niệm hơi thở còn giúp Niệm căn trở thành Niệm lực. Người tu thiền thường nghe nói ‘tâm viên, ý mã’ - tâm ý lăng xăng như khỉ, ngựa. Hình ảnh này chỉ là sự mô tả tâm một cách phiến diện, vì thực ra tâm ý con người phức tạp hơn nhiều với muôn vàn trạng thái khác nữa (hôn trầm, thuỳ miên, vô ký, trạo cử hối quá…).

Đúng như Đức Phật đã nhận định “tâm đa dạng hơn danh hoạ, không có bộ loại nào khác lại đa dạng như tâm” (TƯ2, tr.270 = [Ve.7.100]). Tuy nhiên nếu cứ theo sự mô tả đơn giản theo kiểu ‘tâm viên, ý mã’, thì một câu hỏi cần được đặt ra là ‘Làm thế nào làm chủ được tâm khỉ, ý ngựa?’ Quán sát một người huấn luyện khỉ, ngựa trong rạp xiếc, hành giả sẽ tìm được câu trả lời.

Như đã được biết, người huấn luyện xiếc muốn tập cho con thú biết vâng lời, tất phải sử dụng những câu lệnh thích ứng và kiên trì thực hiện. Lúc đầu con thú sẽ không tuân phục, nhưng sau một thời gian chúng sẽ thuần thục và làm theo. Lúc này xem như câu lệnh của người huấn luyện thú đã có ‘lực’ của nó. Tu tập rèn luyện tâm hành và thân hành còn mang nặng tính bản năng cũng tương tự như vậy.

Những câu lệnh thích ứng bằng các câu Như lý tác ý và với sự tinh cần thực hành bền bỉ, thường xuyên sẽ đến lúc phát huy sức mạnh của câu tác ý, điều này trong kinh gọi là Niệm lực. Khi đã có Niệm lực thì Định lực cũng được thiết lập, từ đây việc hướng tâm, dẫn tâm xuất nhập hay an trú các tầng thiền nhằm đạt được trí tuệ từ thiền định, khả dĩ mới thực hiện được. Ngược lại, nếu không tu tập Niệm căn thành Niệm lực thì việc điều phục thân tâm là chuyện rất khó xảy ra. Đây cũng là một sự khác biệt giữa thiền định của đạo Phật và các thiền định ngoại học.

Bên cạnh đó, niệm lực còn có một ý nghĩa khác nữa: đó là sức mạnh của trí nhớ. Vị hành giả thường xuyên ‘an trú chánh niệm trước mặt’ là niệm các câu tác ý trước sau phải rõ ràng, không lẫn lộn, giống như nhìn các món đồ trước mặt, đây chính là phương thức hữu hiệu để rèn luyện tăng cường khả năng ghi nhớ và chống lão hóa về tâm thức.

Tóm lại, tu tập Định niệm hơi thở trong phần quán thân đem lại rất nhiều lợi ích và kết quả to lớn. Mặc dù Định niệm hơi thở được giới thiệu trong kinh Niệm Xứ chỉ là giai đoạn đầu; tuy nhiên ở đây người học Phật cũng cần nhận thức thêm và nắm lấy pháp môn này như một phương tiện quan trọng để đi tới giải thoát. Trong Tương Ưng 5, đức Thế Tôn đã nói rõ bảy quả, bảy lợi ích của việc tu tập Định niệm hơi thở:

“Tu tập như vậy, này các Tỳ kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô hơi thở ra, có quả lớn, có lợi ích lớn. Tu tập như vậy, này các Tỳ kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô hơi thở ra, được chờ đợi bảy quả, bảy lợi ích. Thế nào là bảy quả lợi ích?:

Ngay trong hiện tại lập tức thành tựu chánh trí. Nếu ngay trong hiện tại, không lập tức thành tựu chánh trí, thời khi mệnh chung thành tựu chánh trí. Nếu khi mệnh chung không thành tựu chánh trí, thời sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được Trung gian Niết Bàn, được Tổn hại Bát Niết Bàn, được Vô hành Niết Bàn, được Hữu hành Bát Niết Bàn, được Thượng lưu, đạt đến Sắc cứu cánh thiên” (TƯ5, 314 = [Ve.12.5]).

Những ai đã tu tập sung mãn Định niệm hơi thở đều có thể nhận thấy lợi ích bất khả tư nghì của pháp môn này. Tuy vậy, trong giai đoạn tu tập Bốn Niệm Xứ để nội tâm được tịch tĩnh, không gián đoạn thiền định, thì tu tập Định niệm hơi thở phải kết hợp với việc tu tập tỉnh giác trên bốn oai nghi đi,
loading...