Kiến thức
Giới luật là ngọn đuốc soi đường
Thứ bảy, 26/08/2023 02:23
Để bảo hộ sự thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng đoàn cũng như để giữ gìn bản thân vị Tỷ-kheo không cho hư hủy, tránh gây mất niềm tin Tam bảo của tín thí, Đức Phật đã đề ra giới luật.
Trong việc giữ gìn giới luật, người tu hành tự nguyện giữ giới pháp một cách nghiêm mật để cho thân tâm thanh tịnh. Nương vào giới luật để gạn lọc thân tâm, hành giảđoạn trừ mọi lậu hoặc, ngăn ngừa nghiệp bất thiện. Nói như ngôn ngữ trong các bài giảng pháp “… Nhờ đó mà thân tâm được thúc liễm, đạo hạnh được tăng trưởng, đời sống không bị nhiễm ô trần tục”. Từng cá nhân như vậy hợp lại, thành một tập thể trang nghiêm thanh tịnh. Đây chính là điểm khác biệt của Tăng đoàn Phật giáo so với tổ chức của các hội chúng khác. Chính tự lực của từng hành giả sẽ tác động đến Tăng thân và khi Tăng thân vững mạnh sẽ tạo tha lực hỗ trợ hành giả dũng mãnh tinh tấn trong quá trình tu học.
Xác định giới pháp là thầy, trong kinh Đại Bát Niết-bàn, Phật dạy: “Này Anan, pháp và luật Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ thì pháp và luật ấy sẽ là Đạo sư của các ngươi” (Trường bộ kinh II ).
Ở một phần khác , Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, nay Ta dạy các ngươi: các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn lên chớ phóng dật”. Giới hạnh không chỉ thực hành những qui định trong giới bổn mà còn là công phu gạn lọc, kiểm soát, ngăn ngừa các nghiệp sát, dâm, đạo, vọng. Từ đó tạo điều kiện cho thiền định được vững chãi, phát triển trí tuệ được dễ dàng.
Trong kinh Di giáo, Phật lại nói: “Các thầy Tỳ-kheo, sau khi Như Lai diệt độ phải trân trọng tôn kính tịnh giới… phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các ngươi. Nếu Như Lai có ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy” (HT.Trí Quang dịch).
Nói về các nghiệp “dâm” mà một số hành giả phạm phải, chúng ta nghe trong kinh văn khi Phật nói với A-nan, “… Ông A-nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền định thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm; dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản nhân của cơm vậy. Ông đem thân dâm cầu diệu quả của Phật, dầu được diệu ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cỗi gốc đã thành dâm, thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng Niết-bàn Như Lai. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tính đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông mong chứng quả Bồ-đề của Phật… Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều những hạng yêu mị tà đạo ấy sôi nổi trong thế gian, chúng lén núp gian dối, tự xưng là thiện tri thức, mỗi người tự xưng đã được đạo pháp thượng nhân, lừa gạt kẻ không biết, doạ dẫm khiến cho mất lòng chính tín; chúng đi qua đến đâu, cửa nhà người ta đều bị hao tổn tan nát”. (Trích kinh Thủ-lăng-nghiêm, quyển sáu. Dịch giả: Tâm Minh Lê Đình Thám - Chỉ bày bốn pháp đoạn trừ Sát, Đạo, Dâm, Vọng)
Kinh Trường bộ có nêu ra năm lợi ích của việc giữ gìn giới luật như sau: 1. Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh tấn. 2. Người có giới đức được tiếng tốt đồn xa. 3. Người có giới đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc. 4. Người có giới đức khi chết tâm không rối loạn. 5. Người có giới đức sau khi mạng chung được sinh về thiện thú, thiên giới. Kinh Tăng chi III, Đức Phậtdạy rằng: “… Biển cả không bao giờ dung chứa tử thi. Cũng vậy, nếu Tỳ-kheo nào không giữ được hạnh thanh tịnh thì Tăng đoàn sẽ không sống chung với kẻ ấy, hãy nhanh chóng tụ họp lại loại kẻ ấy ra. Dù kẻ ấy có ngồi giữa Tăng chúng cũng xa rời Tăng chúng, và Tăng chúng cũng không bảo vệ được kẻ ấy”.
Trưởng lão Thích Thông Lạc từng nhận định: “… nhìn tu sĩ Phật giáo hiện giờ, biết Phật giáo suy hay thịnh, mất hay còn. Không phải ở số đông tu sĩ Phật giáo; không phải ở chỗ Phật giáo được chấp nhận là quốc giáo; không phải Giáo hội Phật giáo được tổ chức như một quốc gia có tổ chức hẳn hoi, có các trường học từ sơ, trung, cao đẳng để tu sĩ học tập có cấp bằng cử nhân, tiến sĩ… Cũng không phải ở chỗ xây cất chùa to, tháp lớn, kiến trúc kiên cố vĩ đại mà ở chỗ tu sĩ phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt. Nói tóm lại, vị Tỳ-kheo phải giữ gìn giới luật nghiêm túc thì Phật giáo mới còn và hưng thịnh, còn chúng Tỳ kheo phá giới thì Phật giáo mất và không hưng thịnh. Lời di chúc năm xưa của Đức Phật còn vang mãi trong tai chúng ta rằng giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất” (Thích Thông Lạc - Giới luật là pháp tu căn bản của Phật giáo để thoát khổ - Người Phật tử cần biết, tập 3, Nxb Thế Giới, 2011).
Cách đây hơn 80 năm, Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám trong tạp chí Viên Âm từng phân loại Tăng chúng tóm tắt như sau: a. Hạng lợi dụng Phật pháp; b. Hạng lỡ dở không biết tu hành, lấy những lối cúng cấp làm nghề riêng; c. Hạng ưa thanh nhàn chỉ vui thú lâm tuyền, quên trách nhiệm của Tăng đồ. d. Hạng tu vì tư lợi, mình chỉ biết tự giải thoát. e. Hạng thực hành Chánh pháp.
Trên cơ sở đó, ông đề nghị xây dựng lại, chỉnh đốn tăng-già với những việc cụ thể như:
- Đối với trong sơn môn
a. Lập một Ban luật sư để kiểm sát giới hạnh của tăng chúng. Ghi rõ kẻ nào phá giới, sẽ bị thâu sổ không được đắp điền y. Nếu không có sổ hay ban luật sư không cho phép mà đắp điền y thì bị truy tố về tội giả dối.
b. Tổ chức những Ban thầy cúng. Thầy cúng không được đắp điền y mà chỉ là ưu-bà-tắc mang y màu nâu hay màu xám. Các ông thầy nếu không giữ đủ giới thì cho vào hạng ấy…
- Về phương diện chư thiện tín
a. Không nên nhận những người đã phá giới là thầy tu đạo Phật.
b. Phải hủy những điệp quy y thọ giới của các ông thầy đã phá giới cấp cho, vì không có giá trị.
c. Công bố những sư phạm giới có bằng cớ của các bậc Tăng-già.
d. Bảo hộ, cúng dường các thầy tu giữ giới luật.
e. Không dự những việc không hợp với Phật pháp.
Cư sĩ Tâm Minh khẳng định “Hộ trì giới luật là xây nền tảng cho đạo Phật, hoằng dương Chánh pháp”. B’Su Danglu trong “Đạo Phật ngày mai” từng kêu gọi “Muốn bảo vệ đạo Phật một cách hữu hiệu, mỗi người Phật tử phải xây một ngôi chùa cho chính bản thân mình. Vào thế kỷ XI, có một vị thiền sư tên Ngộ Ấn, đã thực hành và truyền dạy pháp môn Tam bản “Dĩ thân vi Phật, dĩ khẩu vi Pháp, dĩ tâm vi thiền” (Dùng thân làm Phật, dùng miệng làm pháp, dùng tâm làm thiền), Giáo lý Tam bản dạy chấm dứt sự truy cầu rong ruổi bên ngoài và trờ lại với ngôi chùa thân khẩu ý” (B’su Danglu - Đạo Phật ngày mai, Lá Bối, 1970).
Nguồn: Tạp chí Văn hoá Phật giáo