Kiến thức
Học Phật từ trong thai tạng
Chủ nhật, 07/11/2023 05:09
Đức Phật xem thể tánh của mình đồng đẳng như bao chúng sinh. Phật không cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng kinh điển.
Thiền sư Hắc Thủy Thừa Cảnh bên Trung Hoa có hai câu thơ tuyệt cú: “Rổng rinh vô hạn trùm trời đất/ Ẩn hiện sương mù nắng Phật lên” (Quách nhiên thản đấng châu sa giới/ Trước vụ tiềm dung Phật nhật huy). Thi nhãn nằm ở “nắng Phật”; ý của ngài: “Đất lớn che không hết, mặt trời ấy lồ lộ khắp mọi nơi”. Phật pháp vô biên trùm khắp các cõi, không gì không bao hàm song không phải khẳng định sự cao vời mà thấm nhuần ánh sáng đến mọi ngách tối thế gian. Đạo Phật chính là phụng sự. Thế nên bảo đạo Phật chối bỏ, xa lánh, phủ nhận nhân gian là sai lạc! Lời đúc kết vàng ròng của giáo sư lỗi lạc Phương Đông Mỹ: “Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”.
Đạo Phật, và cả khoa học ngày nay cũng thừa nhận: con người được cấu thành từ vật chất (thân xác, sự dung hợp của tứ đại) và phi vật chất (tâm, ý/thức...). Một hành động của thân bao giờ cũng xuất phát từ tâm (ý) rồi mới dẫn lên trí, trí sẽ phát lệnh chân tay miệng tạo tác. Một câu trong Đại học: “Bậc quân tử nhất định phải khiến cho ý niệm của bản thân mình được chân thành”. Con người, nhất là những người đắc quả bây giờ là chu trình tiếp nối các đời trước, mọi “dữ liệu” được tồn lưu ở thức thứ tám alaya. Và, chỉ tính trong hiền kiếp này, trước Phật đã có 3 vị Phật xuất thế… Sau Thích Ca Mâu Ni Phật, theo kinh Thủ Lăng Nghiêm: hiện nay tuổi thọ của loài người ở trong kiếp giảm, khi giảm xuống còn 10 năm rồi lên đến 84000 tuổi, thì Phật Di Lặc sẽ xuất hiện tiếp tục khẳng định và hoằng truyền Kinh điển.
Đạo Phật nhằm tu Thân. Tu để sống tốt hơn trong kiếp này và cứu cánh hướng tới Niết bàn. Đạo Phật là con đường giác ngộ đưa chúng sanh ra khỏi lục đạo, vĩnh viễn thoát khổ. Hễ chừng nào còn luân hồi, nguy cơ vào ba đường ác thường nhiều hơn ba nẻo thiện; phần Phật thuyết về đạo hạnh làm người có thể gọi là Triết lý Nhân sinh. Con người trang bị các triết lý khác rồi mới quay trở lại trang bị triết lý nhân sinh là vòng vèo, nhiều khi lạc mất đường về rồi biết đâu chẳng còn thời gian? Phật nói “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”; đời biến thành câu thông dụng "Quay đầu là bờ" để chỉ người sai lầm, sớm tỉnh ngộ viết lại cuộc đời.
Đạo làm người ai không trọng chữ Hiếu. Nàng Kiều trọng hiếu mới bán mình vào lầu xanh chuộc cha. Cổ nhân dạy: “Vạn ác dâm làm đầu, trăm thiện hiếu trước tiên”. Từ Nho đến đạo làm người ngày nay chữ Hiếu vẫn luôn được tính điểm cao nhất. Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật dạy Hoàng hậu Vi Đề Hy (mẹ vua A Xà Thế) chánh nhân vãn sanh là Tịnh nghiệp tam phước, còn là chánh nhân của mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai; câu đầu tiên: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng”; chữ hiếu làm đầu. Trong nhiều kinh Phật khác đều tôn hiếu đạo; Địa Tạng kinh còn gọi với một tên khác là Hiếu kinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, một trong ba người được xếp hàng thánh nhân của thế kỷ thứ 20 (cùng với thi hào Tagore và Mahatma Gandhi) - "bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại" đã nói: "Chúng ta sanh ra và tái sanh trong vô số kiếp. Có thể mỗi chúng sanh đã từng là cha mẹ của chúng ta trong một đời này hay đời khác". Kinh Đại báo phụ mẫu trọng ân: Một lần Đức Phật dừng lại bên đống xương khô và lạy, đệ tử hỏi nguyên do, Ngài nói đây là cha mẹ ta các đời trước; rồi giảng, xương to và trắng là của người cha, xương nhỏ và thâm là đàn bà bởi mẹ vắt kiệt sữa và máu cho con... Đọc kinh này ai không nước mắt thấm vào trong!
Ở đời thấy người tu rời đại gia đình, rời cha mẹ lên chùa hay nương tịnh thất riêng cho là... bất hiếu. Người tu họ hiểu nếu không thành tựu nghiệp đạo, sẽ không thể giúp ai có thân người ở kiếp sau nói chi về nước Phật. Phần lớn cha mẹ đều để lại gia sản (khổng lồ), nhưng khi qua cõi Thân trung ấm (bardo) chịu nghiệp quả từ việc kiếm số tiền đó cho con, mong con trích ra một phần trăm làm thiện hồi hướng cho mình - là điều khá hoang tưởng. Bởi, con đâu có học Phật, đâu biết cha mẹ cần con tạo công đức chứ không phải là đồ hàng mã! Đạo Nho được đề cao xưa nay cũng nhờ một chữ Hiếu to đùng treo nơi trịnh trọng mỗi gia thất. Tinh thần hiếu đễ ấy nếu soi vào Đạo Phật khiêm tốn hơn nhiều. Ca dao từng đúc kết: “Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”. Chẳng những thờ, kính, đạo Phật còn có hẳn mùa Vu lan báo hiếu. Thờ, kính mới chỉ ở đời này, mà chưa chắc đã trọn. Đạo Phật còn thôi thúc mỗi người tu tinh tấn; nếu mình chưa có nổi tâm cầu giải thoát thì mong chi báo hiếu mẹ cha nơi cõi khác. Hiếu trần ai mới là hiếu ở cấp độ thấp. Hiếu trần ai với thứ vật chất thô lậu thảy gần như vô nghĩa ở bên kia núi. Nhiều người bây giờ lớn lên trôi tuột theo dòng đời kiếm tiền dung dưỡng thân; tưởng về xây cho cha mẹ ngôi nhà lớn, thuê người cung phụng hàng ngày của ngon vật lạ - là hiếu. Thử nhìn nhận, một người mang danh đạo đức song tới đâu cũng bị người ta chửi mắng (tất nhiên là chửi mắng có lý do), ấy chẳng phải Bất Hiếu? Thậm chí còn bất nghĩa với tổ tông dòng tộc. Ngược lại, một người sống chân thành, luôn giúp đỡ động viên mọi người không phân biệt thân sơ..., chẳng phải cha mẹ nở mày nở mặt, chẳng phải là Đại Hiếu. Mục Kiền Liên - người đệ tử đắc quả, thần thông bậc nhất của Phật nhờ nương vào mười phương chư tăng nhất tâm chú nguyện mới cứu mẹ thoát cảnh bưng chậu máu đứng trên bàn chông dưới địa ngục. Nên mới có câu niệm: “Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát ma ha tát”.
Để có Hiếu và Đạo, ngoài “nhân chi sơ tánh bổn thiện”, đòi hỏi mỗi người phải tu, tức thanh tẩy vọng tâm. Trước hết lạm bàn đến câu nói của Mạnh Tử ở phương diện Đạo Phật. Tam tự kinh: “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Pháp ngữ của Thiền sư Sùng Sơn đời thứ 78 từ Đức Phật Thích Ca (01.08.1927 - 30.11.2004): “Thân các bạn khác nhau, nhưng tâm các bạn giống nhau.” Kinh Phật thuyết: “Viên mãn bồ đề vi vô sở đắc”, nghĩa là tất cả có trong tự tánh; tu là khôi phục (nới rộng) lượng tâm. Hay: “Chúng sanh và Phật vốn không hai”; “Tất cả chúng sanh vốn là Phật” (Kinh Hoa Nghiêm). Bộ kinh quan trọn nhất trong vườn kinh điển Đại Thừa là Pháp Hoa cũng viết: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” (Chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật). Một đứa trẻ sinh ra tâm như tờ giấy trắng. Lúc tích lũy nghiệp chưa thức giấc, nếu gặp môi trường tốt (lớn lên ở chùa từ nhỏ hoặc trong gia đình mộ đạo, Phật tính sẽ nẩy mầm. Còn gặp môi trường không tốt, các chủng tử sẽ bám rễ vào vỏ bọc vô minh. Trẻ em đương thời mấy tuổi đầu đã không thể rời máy tính và thích chơi di động, tâm vọng loạn với muôn trò gồm cả vũ khí hiện đại tối tân. Mười đứa trẻ đang ăn thứ gì, ta thử ngửa tay xin chúng miếng nhỏ, bao đứa sẽ cho, bao đứa khư khư giữ chặt và hét lên? Có thể những kiểu như vậy rất bình thường, nhưng nếu so với bàn cân của Đạo thì thật nghiêm trọng. Nếu cha mẹ từ nhỏ dạy trẻ cho thì lớn lên, trừ hao chí ít chúng cũng không lấy của ai. Khoa học ngày nay cùng lý với Phật pháp, rằng thông minh trí tuệ được sinh ra từ nền tảng Hiếu kính, Đạo đức, Từ bi. Ngày xưa cha mẹ thường thuần thục rồi làm mẫu mực cho con học theo Đệ Tử Quy, nên con lợi lạc cả 3 nền tảng ấy. Phương pháp giáo dục này cũng khá đơn giản, mà hiệu quả không ngờ! Cứ vài ngày cha mẹ lại cùng con học một điều, thuộc rồi hành, hành nhuyễn mới học tiếp câu khác. Lúc cha mẹ vừa thấy con đang không nghe lời chẳng hạn, liền nhẹ nhàng hỏi "cha mẹ gọi... thì sao con nhỉ?"; và nó sẽ đọc ra "Cha mẹ gọi, lập tức vâng/ Cha mẹ sai, phải làm ngay". Lúc đã thực hành nhuyễn, câu đầu tiên trong Đệ Tử Quy này trở thành đức tính, rất hiệu quả mà cha mẹ chẳng nhọc công gì với con cả; bởi chính lúc đứa trẻ đọc ra là tự câu đó đã giáo huấn nó, cộng với niệm lực thánh nhân này sẽ tự có sức nhiếp phục đứa trẻ. Hay những câu khác trong Đệ Tử Quy: “Cha mẹ dạy, cung kính nghe/ Cha mẹ trách, phải thừa nhận; Thân bị thương, cha mẹ lo/ Đức hạnh kém, cha mẹ tủi; Cha mẹ bịnh, nếm thuốc trước/ Thường chăm sóc, không lìa khỏi; Khi nói năng, trước tín nhiệm/ Không lừa gạt, không nói dối; Phàm là người, đều phải thương/ Chung một cõi, một địa cầu”, v.v. Các bậc Thánh là những người thấy đến ý nghĩ của ta vừa khởi sinh trong tâm, các Ngài thông minh gấp triệu triệu lần người phàm nên tuân theo lời họ mà dạy con dĩ nhiên lợi vô biên. Song cha mẹ nào kiên trì dạy con như vậy khi chính họ không làm được, thế nên sự dạy con cũng ngang bằng tội lừa dối, đứa trẻ sớm muộn cũng thấy nên sự tuân phục của nó chỉ bằng mặt mà không bằng lòng; những thói hư của cha mẹ lớn lên nó sẽ học theo cho đúng như vậy, thậm chí còn vượt xa. Thật ra “dạy con từ thuở lên ba” đã là muộn. Thánh nhân xưa khuyên dạy từ trong thai nhi - thai giáo. Điều này người đời nay khó tin, may có khoa học chứng minh mới vớt vát được phần nào. Dạy con từ trong thai là trọng yếu. Bởi thai nhi biết ghi nhận, sự ghi nhận sâu sắc nhất, ấn tượng nhất và gần như nó tạo nên lực làm nền, thôi thúc nó trọn đời. Thai nhi được nghe thiện, tánh thiện vốn sẵn trong nó sẽ được khai dẫn. Quý nhất là thường nghe nhạc đạo, nghe pháp, nghe niệm Phật, nghe giảng kinh; đây là chủng tử khai tuệ giác và từ bi, sẽ khiến đứa trẻ từ trong thai học được chân lý nhiệm mầu, rất khó lầm lạc và khổ não về sau. Do chậm lụt sở kiến mà đứa con khởi ý học Phật hay hơn thế là muốn lên chùa, cha mẹ nghĩ mất con bèn giằng lại bằng được. Thật muôn trùng lầm lẫn! Bởi họ không biết Phật là thầy, thầy của ba cõi khắp trời người; là Đức bổn sư mà đến những nhà khoa học và triết gia vĩ đại nhất cũng bái làm thầy.
Kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng Như Lai”; “Như tâm, Phật cũng vậy - Như Phật, chúng sanh đồng - Tâm, Phật, và chúng sanh - Cả ba không sai khác”. Điều cốt yếu là mạch ngầm ấy có được khơi dòng. Một đứa trẻ lên ba đã thấy chúng bắt đầu nhiễm ô, huống hồ ba chục tuổi. Người tu tẩy vết nhơ ăn sâu cho đến khi tâm nguyên sơ trong trắng như… đứa trẻ mới hầu mong thấy tánh. Trong Đạo Đức kinh Lão Tử luận: “Trở về ngây thơ, đức vĩnh viễn không sai lạc”. Nước luôn được lấy để minh thị về Phật và chúng sanh không hai khác. Chân tâm tự tánh là Phật (nước trong), phàm là mê lầm chấp trước (nước đục). Nước nào cũng có thể lọc nên trong. Điều quan trọng là người ta có muốn/chịu lọc, bằng cách hành theo trước nhất là mười điều thiện.
Thời đại bây giờ để sống tốt phải vùng vẫy, phải thiệt thòi, khổ và khiêm ái. Ấy là tu thân. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”. (Từ vua đến dân đều phải lấy việc tu thân làm gốc). Phật giảng: “Thắng một vạn quân không bằng chiến thắng bản thân”. Ai ai đều tự tu để cứu mình. Em trai của Phật là A Nan cũng như bao đồ môn khác, việc tu tập phải tự nương ở chính mình. Trên dòng cuồng lưu của nghiệp thức, nếu con người không biết đời thọ khổ, không tin tâm vô thường, pháp vô ngã, sẽ bị cuốn trôi đến tận cuối nguồn dâu bể. Cuộc đời - dòng chảy không ngừng của nghiệp thức ấy hòa vào máu huyết căn mạng. Đức Phật nói: “Dòng nước sông Hằng phút trước và phút sau đã khác nhau. Ta của ngày hôm qua đã khác với ta của ngày hôm nay”; thật gần với một câu được xếp hàng biện chứng kinh điển của Héraclitos: "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông". Tu thân là bơi ngược dòng nghiệp thức, chỉ cần lơ đãng buông lơi tỉnh thức, phước sẽ sụt giảm. Ngạn ngữ Pháp: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng”. Trong giấc thiền có từ “hôn trầm”; cần phải “mở to mắt ra”. Đạt được chút đạo quả nhỏ xíu đã tưởng mình bậc giác ngộ. Hư Vân thiền sư từng căn dặn lúc tham thiền: “Ngay cả thấy Phật Thích Ca đến dùng tay xoa đầu thọ ký, quý vị cũng chớ để ý đến, hay khởi tâm vui mừng”. “Không khởi tâm thánh, tức gọi là cảnh giới lành” (Kinh Lăng Nghiêm).
Nhân sinh triết học của Lão Tử khuyên người nên “đem thân vì thiên hạ”. Người tu chân chính trong cõi Phật không ai tu cho mình cả. Ước nguyện của họ chính là Đắc Đạo - Tái Sinh - Giảng Pháp; vòng tròn ấy liên tục từ kiếp này đến kiếp khác, như Đạt Lai Lạt Ma với 14 lần tái sinh và thật nhiều Bồ tát hóa hiện phàm nhân âm thầm giáo hóa. Phật Thích Ca thành Phật từ vô thỉ. Từ Bồ tát lên Phật không xa, song họ vẫn muốn là Bồ tát để trở lại cõi nhân hóa độ. Phật Địa Tạng giương cao tấm bảng: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật” (Địa ngục chưa trống, tôi thề không thành Phật). Hiểu thô nhất là chúng sanh chưa hết đau khổ, Bồ tát chưa hưởng niềm vui.
Để thấy người tu nếu chưa giúp được gì ít ra cũng không đụng chạm đến quyền lợi của ai, không phiền nhiễu. Phật dặn các Thiện nam tử trong lúc giảng Kinh Vô Tự Bảo Khiếp: “Điều gì mà Bồ tát không muốn đến với mình chớ nên bảo người khác làm”. Khổng Tử: “Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn). Những điều mình không muốn ở đây là sự chán ghét, khó chịu hiển nhiên và có tính phổ quát. Một bữa tiệc thịnh soạn thì khoai, sắn, cháo trắng là những món mình và người khác không ưa. Gần hơn, trong bữa cơm có vài món (dẫu ngon) song đã ngán, ta mới nảy ý bưng qua cho hàng xóm nghèo để lấy lòng. Hành động này tạo nghiệp. Miếng ăn ấy đến chiều sẽ phải đổ cho vật; còn không cho vật, nhà giàu sẽ đổ vào hố rác - vô tình gây nghiệp… Lý ra nhà giàu phải cảm ơn người nghèo thay vì tự đắc mình người tốt. Bởi nhờ có nhà nghèo, nhà giàu mới khởi được lòng thương hại, mới phát tâm bố thí, nhờ đó nhà giàu tăng phước, góp phần tăng thọ mạng và tẩy trừ chướng nạn. Phật dặn: “Các vị nên biết điều không muốn đến với mình, chớ nên cho người khác”. Là con của Phật sao có thể đẩy khó khăn về người khác; ngược lại nhận về mình cái dở, cái khó, cái nặng nề ô uế. Phật Thích Ca Mâu Ni độ người đầu tiên là Kiều Trần Như vốn đời trước đã “lăng trì” mình, để trả ơn.
Ra đường gặp người dưng giúp đỡ ta còn hơn cả anh em ruột rà, không hay ấy là ân nhân đời trước. Biết khiêm nhu, chớ khoe khoang việc thiện (ngoại trừ lấy để làm gương), phước của họ sẽ cấp số nhân. Quá coi trọng phần vật chất ắt bỏ quên phần tinh thần. Cõi trần được tạo dựng trên nền vật chất, con người bởi thế chỉ tin những gì hiện hữu. Gửi một trăm ngàn vào ngân hàng sẽ còn đó, cũng số tiền ấy “gửi” vào việc thiện chúng ta ngỡ mất. Việc khoa học sáng chế ra máy thu âm và hình ảnh quá khứ đã phần nào cho thấy không gì biến mất khỏi không gian. Nghiệp thức là chiếc camera ghi lại tất cả ý nghĩ và hành động của mỗi người để từ đó tạo nên phước họa trong đời, tạo nên thân gì ở kiếp khác. Sự khoe khoang hãnh diện sẽ trừ phần trăm số đức ta làm được. Người đời thường sợ thiên hạ không biết đến thiện nghiệp của mình nên mới vậy, đó là lối suy nghĩ khủng hoảng thừa, thiểu trí. Kinh Hoa Nghiêm chép, đại ý, nếu các quốc độ đều nghiền ra bụi thì Bồ tát cũng đếm được. Chính vậy trong Kinh Dịch, quẻ Khiêm được xếp tốt nhất, và bao giờ cũng thuộc hàng đầu đối với người muốn nghiên cứu. Nhẫn được đề cao trong nghiệp tu. Người có sẵn Khiêm nhu từ nhỏ khá hiếm; người sơ cơ tu Khiêm, thì phải bước qua Nhẫn. Chữ Nhẫn ở trên có bộ Đao, dưới là Tâm; động niệm (ác) thì dao rơi xuống xuyên tim! Nhẫn trong Đạo Phật có thể ví như hạnh của Đất (hiền như đất), người dội nước sạch và cũng có kẻ hắt nước bẩn vào.
Học trò có lần hỏi chết là gì, Khổng Tử dạy: “Chưa hiểu cuộc sống làm sao hiểu được cái chết”. Câu này bàn sâu, là một hạn chế. Bàn nghĩa gần là ưu việt. Kinh Phật thường nói về luân hồi kiếp và các cõi thánh cao thanh, tuy điều trọng yếu tu tập phải luôn an trú trong hiện tại. Tu lại tưởng về quá khứ vọng về vị lai dễ lạc vào ma đạo. Người tu Thiền hay Tịnh độ, đích vẫn là giữ tâm tịch tịnh, không phóng tạp niệm. Tạp niệm quá dày quá đậm sẽ tạo nên cảnh giới khiến ta thọ nhận. Chỉ ý niệm thôi, chưa nói biến thành hành động, ý niệm thiện hay bất thiện sẽ hướng cuộc đời về phía đó.
Tận kiếp này ai rồi cũng phải qua con sông rộng, ở đấy không một con đò nào, cũng không ai đủ sức bơi, vấn đề là phải chuẩn bị cái phao. Chọn trong những pháp môn được Phật truyền giảng, xem điều kiện và duyên mình hợp với Mật, Thiền hay Tịnh độ, hiển giáo hay mật giáo, viên giáo hay thượng thừa; từng ngày một bơm khí vào phao; phao căng thì cái chết trở nên nhẹ tựa lông hồng. Đức như “tiền”, nếu luôn sẵn tiền trong túi chẳng ai còn lo dạt về đâu; dĩ nhiên buộc phải rời kiếp này, tiền là rác, Đức mới là giấy thông hành.