Kinh Phật

Kinh Lương Hoàng Sám (Quyển 10)

Thứ năm, 09/11/2022 01:59

Trong vòng luân hồi từ vô thủy kiếp đến nay, do vô minh mà chúng ta đã tạo vô số tội lỗi..Những tội nghiệp ấy đã khiến chúng sinh chịu sự thống khổ trong địa ngục. Việc sám hối tội chướng là vô cùng quan trọng chỉ có Pháp sám hối mới dừng được tội lỗi và mới sạch được tội lỗi cho chúng ta.

Audio
432

>> TRỌN BỘ & CÁCH THỨC TRÌ TỤNG KINH LƯƠNG HOÀNG BẢO SÁM

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI TÁM

BỒ TÁT HỒI HƯỚNG

Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau chịu khó nhọc, chịu cực khổ tu tập được vô lượng căn lành như vậy, bây giờ mỗi người lại nên suy nghĩ như thế nầy:

Chúng con đã ... tu tập được bao nhiêu căn lành đều vì lợi ích cho hết thảy chúng sanh, khiến các chúng sanh hoàn toàn thanh tịnh.

Chúng con nhờ các căn lành tu tập sám hối khiến chúng sanh trừ diệt được vô lượng khổ não ở các cảnh địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, diêm la vương v.v... đem công đứv sám hối nầy làm nhà cửa rộng lớn cho chúng sanh, khiến chúng sanh diệt trừ được khổ ấm, làm việc đại cứu hộ, khiến chúng sanh thoát phiền não; làm chỗ đại quy y; khiến chúng sanh xa lìa sợ hãi; làm chỗ đại chỉ thú, khiến chúng sanh được trí huệ; làm chỗ đại an ổn, khiến chúng sanh được chỗ cứu cánh an ổn; làm đuốc lớn soi sáng khiến chúng sanh diệt trừ si ám; làm ngọn đèn đại minh đăng, khiến chúng sanh được an trú hoàn toàn cảnh giới thanh tịnh; làm vị đại đạo sư, khiến chúng sanh vào pháp môn phương tiện, được thân trí thanh tịnh.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy các pháp như vậy là các vị Bồ tát ma ha tát vì kẻ oán người thân mà tu hành, đem các căn lành đồng chung hồi hướng cho tất cả chúng sanh, đối với các chúng sanh bình đẳng, không sai khác, vào pháp quán bình đẳng, không có tư tưởng oán thân, thường đem con mắt từ ái mà ngó chúng sanh. Nếu chúng sanh ôm lòng oán giận Bồ tát, sanh tâm ác nghịch, thì Bồ tát là bậc Thiện tri thức khó điều phục tâm tánh của chúng sanh, bằng cách khéo nói pháp thâm diệu. Ví như biển cả, các thứ độc hại của chúng sanh không thể phá hoại. Tâm Bồ tát cũng vậy, những chúng sanh ngu si, không trí huệ, không biết báo ơn, không thể phá hoại tâm của Bồ tát.

Những chúng sanh ấy sanh ra vô lượng ác độc cũng không thể làm động loạn đạo tâm của Bồ tát. Ví như mặt trời sáng chiếu khắp tất cả chúng sanh; mặt trời không vì kẻ mắt mù mà không chiếu. Đạo tâm của Bồ tát cũng vậy, không vì người ác mà thối tâm. Bồ tát không vì chúng sanh khó điều phục mà thối bỏ căn lành.

Bồ tát ma ha tát đối với các căn lành, lòng tin rất thanh tịnh, trưởng dưỡng đại bi, đem các căn lành ấy, dùng thân tâm mà hồi hướng khắp cho hết thảy chúng sanh.

Bồ tát không phải nói suông nơi miệng mà đối với các chúng sanh đều phát tâmhoan hỷ, tâm minh tịnh, tâm nhu nhuyến, tâm từ bi, tâm ái niệm, tâm nhiếp thủ, tâm nhiêu ích, tâm an lạc, tối thắng, đem các căn lành hồi hướng cho chúng sanh.

Bồ tát ma ha tát phát tâm hồi hướng căn lành như vậy, chúng con nay cũng phải mong học phương pháp hồi hướng ấy, cho nên tâm niệm miệng nói lời nầy: “Nếu chúng con có bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho chúng sanh; khiến chúng sanh đồng được thanh tịnh thú (1) , được thanh tịnh sanh, đầy đủ công đức, hết thảy các pháp thế gian không thể phá hoại; công đức trí huệ vô cùng, vô tận, thân khẩu ý nghiệp hoàn toàn trang nghiêm, thường thấy chư Phật đem hết lòng tin, kiên cố lãnh thọ chánh pháp; xa lìa các điều nghi ngờ; nhớ giữ không quên Chánh pháp, thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh, tâm thường an trú nơi thiện căn thắng diệu, hằng xa lìa sự nghèo thiếu, đầy đủ thất thánh tài (2); tu học hết thảy các pháp Bồ tát đã học, được các căn lành; thành tựu pháp bình đẳng được pháp giải thoát nhiệm mầu nhất thế chủng trí (3). Đối với các chúng sanh được mắt từ ái; thân căn thanh tịnh; lời nói biện tài, trí huệ sáng suốt, phát sanh các phép lành tâm không đắm nhiễm; vào pháp thậm thâm, thâu nhiếp hết thảy chúng sanh, đồng an trú nơi cảnh vô sở trú của chư Phật.

Những điều hồi hướng đông như mười phương Bồ tát ma ha tát đã hồi hướng; rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không.

Nguyện xin cho chúng con tên . . . đồng được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện, tứ sanh, lục đạo, chúng sanh cũng đồng được như sở nguyện.

Lại nguyện xin chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Oai Đức Phật

Nam mô Kiến Minh Phật

Nam mô Thiện Hành Báo Phật

Nam mô Thiện Hỷ Phật

Nam mô Vô Ưu Phật

Nam mô Bảo Minh Phật

Nam mô Oai Nghi Phật

Nam mô Lạc Phước Đức Phật

Nam mô Công Đức Hải Phật

Nam mô Tận Tướng Phật

Nam mô Đoạn Ma Phật

Nam mô Tận Ma Phật

Nam mô Quá Suy Đạo Phật

Nam mô Bất Hoại Ý Phật

Nam mô Thủy Vương Phật

Nam mô Tịch Ma Phật

Nam mô Chúng Thượng Vương Phật

Nam mô Ái Minh Phật

Nam mô Phước Đăng Phật

Nam mô Bồ Đề Tướng Phật

Nam mô Trí Âm Phật

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ khiến cho tâm hồi hướng của chúng con được thành tựu hoàn toàn.

Nếu chúng con tên . . . có đủ vô lượng tội, đại ác nghiệp, đáng thọ vô lượng vô biên thống khổ trong đường ác, không thể thoát được, trái với tâm bồ đề, trái với hạnh bồ đề, trái với nguyện bồ đề, nguyện xin mười phương chư đại Bồ tát, hết thảy Thánh Hiền, vì từ bi tâm, không trái với bổn nguyện, giúp đỡ chúng con tên . . . ở trong ba đường ác kia cứu các chúng sanh làm cho các chúng sanh đều được giải thoát thề không vì khổ mà bỏ chúng sanh.

Nguyện xin Bồ tát gánh nặng cho chúng con, chúng con được mãn nguyện bình đẳng độ thoát hết thảy chúng sanh, khỏi sanh lão bệnh tử, ưu bi khổ não, vô lượng ách nạn.

Nguyện các chúng sanh đều được thanh tịnh, đầy đủ căn lành, rối ráo giải thoát, xả bỏ ma quân, xa lìa bạn ác gần gũi bạn lành, chân thật quyến thuộc, thành tựu tịnh nghiệp, diệt hết các khổ, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện của Bồ tát, thấy Phật hoan hỷ, chứng nhất thế trí, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.  

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI CHÍN

PHÁT NGUYỆN

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã phát tâm hồi hướng rồi, thứ lại phát nguyện như thế nầy:

Luận ra: Các điều ác phát sanh đều do sáu căn . Vậy biết sáu căn là tội gốc của tai họa. Tuy vậy nếu biết dùng sáu căn, thì sáu căn cũng hay chiêu tập vô lượng phước nghiệp, cho nên kinh: “Thắng Man” dạy rằng:”Giữ gìn sáu căn, cho trong sạch thân khẩu ý”.

“Căn cứ vào lẽ ấy để chứng minh sáu căn là cội gốc sanh ra các điều lành”.

Vậy nên đối với sáu căn mà phát đại thệ nguyện:

Trước hết

PHÁT NGUYỆN VỀ NHÃN CĂN (con mắt).

Nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng và hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường ở khắp mười phương, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, mắt thường không thấy sắc huyễn, dối trá tham dục không nhàm chán; mắt không thấy sắc siểm nịnh khuất khủc ủy mỵ, không thấy sắc xanh vàng trắng đỏ (v.v...) mê hoặc người đời; mắt không thấy sắc có hình trạng xấu xa, sân hận đấu tranh; không thấy sắc đánh đập làm tổn hại người khác; mắt không thấy sắc làm người ngu si, không tin mà nghi ngờ ám muội; mắt không thấy sắc kiêu mạn, không khiêm tốn, không kính nhường, mắt không thấy sắc tà kiến của chín mươi sáu món ngoại đạo.

Nguyện cho hết thảy chúng sanh từ nay trở đi, mắt thường thấy sắc vắng lặng pháp thân thường trú của mười phương Phật; mắt thường thấy ba mươi hai tướng tốt, tử ma kim sắc và tám chục vẻ đẹp của chư Phật; mắt thường thấy sắc của chư Thiên chư Tiên dâng ngọc báu, rải hoa trời cúng Phật; mắt thường thấy năm sắc hào quang trong miệng Phật tuông ra thuyết pháp độ người; mắt thường thấy sắc Phật phân thân tán thể cùng khắp mười phương; mắt thường thấy chư Phật phóng hào quang trên nhục kế cảm triệu người có duyên đến pháp hội; mắt thường thấy sắc của mười phương Bồ tát, Bích chi, La hán, Thánh chúng; mắt thường được cùng với chúng sanh và quyến thuộc, quan sát sắc thân của Phật; mắt thường thấy chúng thiện vô giáo giả sắc; mắt thường thấy sắc thất giác tịnh hoa; mắt thường thấy sắc diệu quả giải thoát, mắt thường thấy sắc của Đại chúng trong Đạo tràng ngày nay hoan hỷ tán thán Phật pháp, đảnh lễ thọ trì; mắt thường thấy tứ chúng vây quanh Phật để nghe Pháp, sanh tâm khát ngưỡng; mắt thường thấy hết thẩy người tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn; mắt thường thấy hết thảy các tịnh mạc, thiền tư, tu tạp trí huệ; mắt thường thấy sắc của hết thảy chúng sanh được pháp vô sanh nhẫn; hiện tiền được thọ ký thì sanh tâm hoan hỷ; mắt thường thấy sắc bổ xứ của hết thảy các vị chứng được Kim cang huệ, đoạn trừ vô minh, u ám; mắt thường thấy hết thảy sắc mộc dục pháp lưu bất thối.

Đã phát nguyện về mắt rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thiện Diệt Phật

Nam mô Phạm Tướng Phật

Nam mô Trí Hỷ Phật

Nam mô Thần Tướng Phật

Nam mô Như Chúng Vương Phật

Nam mô Trì Địa Phật

Nam mô Ái Nhật Phật

Nam mô La Hầu Nguyệt Phật

Nam mô Hoa Minh Phật

Nam mô Dược Sư Thượng Phật

Nam mô Trì Thế Lực Phật

Nam mô Phước Đức Minh Phật

Nam mô Hỷ Minh Phật

Nam mô Hảo Âm Phật

Nam mô Pháp Tự Tại Phật

Nam mô Phạm Âm Phật

Nam mô Diệu Âm Bồ tát

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm che chở, khiến đệ tử tên . . . được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.

THỨ LẠI PHÁT VỀ NHĨ CĂN (lỗ tai)

Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng và rộng ra khắp hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường ở khắp mười phương từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tai thường không nghe tiếng khóc lóc buồn rầu đau khổ; tai không nghe tiếng kêu la thống thiết trong địa ngục; tai không nghe tiếng vạc nước sôi trào vọt trong địa ngục tai không nghe tiếng cắt xẻ, mũi nhọc, núi đao, rừng kiếm; tai không nghe tiếng vô lượng khổ sở trong mười tám ngăn địa ngục; tai không nghe tiếng nhiệt não đói khát của ngã quỉ kiếm ăn không được; tai không nghe tiếng ngã quỉ hành động, thân thể chi tiết bị lửa đốt vang dội như tiếng năm trăm cỗ xe kêu; tai không nghe tiếng của súc sanh thân dài năm trăm do tuần, bị các sâu trùng nhỏ rúc rỉa khổ sở; tai không nghe tiếng kêu la đau khổ của trâu, ngựa, lừa, lạc đà v.v... thường chở nặng đi xa, bị roi, gậy đánh đập. Bởi kiếp trước mắc nợ người không trả; tai không nghe tiếng đau thương của các cảnh ái ân ly biệt, của oán thù gặp gỡ, của tám nỗi khổ v.v... hành hạ kiếp người; tai không nghe tiếng rên siết của khổ báo do bốn trăm lẻ bốn bệnh hành hạ thân thể; tai không nghe tiếng của hết thảy điều ác hành hạ chúng sanh; tai không nghe tiếng chuông, linh, ốc, trống, cầm, sắc, không hầu, lâm, lang, ngọc bội làm mê hoặc chúng sanh.

Nguyện xin hết thảy chúng sanh từ nay trở đi, tai thường nghe được tám thứ âm thanh của chư Phật thuyết pháp; tai thường nghe được những tiếng: “Khổ, không, vô thường, vô ngã?” tai thường nghe được tám mươi bốn ngàn pháp ba la mật; tai thường được nghe nói các pháp chỉ là giả danh, không có thật thể, không có tự tánh; tai thường nghe chư Phật thuyết pháp chỉ dùng một âm thanh, mà vô lượng chúng sanh tùy theo nghiệp báo của mỗi loài mà tự hiểu; tai thường nghe nói hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh; Phật tánh ấy là Pháp thân thường trú bất diệt; tai thường nghe tiếng mười phương Bồ tát tu hạnh nhẫn nhục, tinh tấn; tai thường nghe nói: được pháp vô sanh giải, khéo nhập Phật huệ, vượt ra ba cõi; tai thường nghe tiếng các vị pháp thân Bồ tát vào dòng pháp lưu, chơn tục đồng quán, niệm niệm đầy đủ muôn hạnh; tai thường nghe tiếng của các vị Bích chi, La Hán và bốn quả Thanh văn thuyết pháp; tai thường nghe Trời Đế Thích thuyết Bát nhã; tai thường nghe các vị đại sĩ trên hàng thập địa bổ xứ trên cung trời Đâu Suất thuyết pháp, bất thối chuyển địa hạnh, tai thường nghe nói vạn hạnh đồng qui về cõi Phật; tai thường nghe chư Phật khen ngợi hết thảy chúng sanh hay tu hạnh thập thiện, tùy hỷ.

Nguyện xin cho chúng sanh thường được nghe tiếng chư Phật khen ngợi: “Lành thay! Người ấy không bao lâu sẽ thành Phật!”

Đã phát nguyện về nhĩ căn rồi; Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thiện Nghiệp Phật

Nam mô Ý Vô Mậu Phật

Nam mô Đại Thí Phật

Nam mô Minh Tán Phật

Nam mô Chúng Tướng Phật

Nam mô Đức Lưu Bố Phật

Nam mô Thế Tự Tại Phật

Nam mô Đức Thọ Phật

Nam mô Đoạn Nghi Phật

Nam mô Vô Lượng Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Bồ tát

Nam mô Nguyệt Quang Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên ... được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.

KẾ ĐẾN NGUYỆN VỀ TỈ CĂN (lỗ mũi)

Ngày nay nguyện xin Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng rộng ra khắp hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường, cùng tận mười phương, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, mũi thường không nghe mùi ăn uống ngon lành do sự sát sanh hại mạng; mũi thường không nghe mùi săn bắn, thiêu đốt, sát hại chúng sanh; mũi thường không nghe mùi ba mươi sáu vật trong thân thể như đẫy da hôi thúi; mũi thường không nghe mùi gấm vóc lụa là mê hoặc lòng người; mũi thường không nghe mùi lột da, xẻ thịt, thui nướng trong địa ngục; mũi thường không nghe mùi ngã quỉ đói khát ăn uống phẩn uế máu mủ tanh hôi; mũi thường không nghe mùi tanh tao bất tịnh của súc sanh; mùi thường không nghe mùi hôi hám của bệnh nhân lở loét nằm trên giường chiếu ô uế , không người chăm nom săn sóc, không thể lại gần; mũi thường không nghe mùi hôi thối của thây ma sình chướng lên, sâu dòi rứt rỉa thối nát.

Nguyện xin Đại chúng chúng sanh trong sáu đường từ nay trở đi, mũi thường được ngửi mùi hương chiên đàn vô giá, thơm khắp mười phương thế giới, mũi thường được ngủi mùi hương thơm của hoa ưu đàm bát năm sắc; mũi thường được ngửi mùi hương thơm của các thứ hoa trong vườn hoan hỷ của chư Thiên; mũi thường được ngửi mùi hương thơm trong thời thuyết pháp ở cung trời Đâu suất; mũi thường được ngửi mùi hương trong khi chư thiên chơi giỡn ở Diệu Pháp đường, mũi thường được ngửi mùi hương ngũ giới, thập Thiên, lục niệm của chúng sanh tu hành ở mười phương; mũi thường được ngửi mùi hương của những người tu hành thất phương tiện, thập lục hạnh; mũi thường được ngửi mùi hương phước đức của các vị Bích Chi Phật của các bậc hữu học, vô học trong mười phương; mũi thường được ngửi mùi hương của các bậc Tứ Hướng, Từ quả chứng pháp vô lậu; mũi thường được ngửi mùi hương của vô lượng Bồ tát lên các Địa vị hoan hỷ, ly cấu, Phát quang, Diệm Huệ, Nan thắng, Hiện Tiền, Viễn Hành, Bất động, Thiện Huệ, Pháp Vân; mũi thường được ngửi mùi hương năm phần pháp thân: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của các Thánh nhơn; mũi thường được ngửi mùi hương bồ đề của chư Phật; mũi thường được ngủi mùi hương của ba mươi bảy phẩm trợ đạo, (4) mười hai nhân duyên quán, (5) và sáu pháp Ba la mật, (6) mũi thường được ngửi mùi hương của các pháp đại bi, (7) tam niệm (8) thập lực (9) tứ vô sở úy (10) và mười tám pháp bất cộng (11) của chư Phật; mũi thường được ngửi mùi hương của tám vạn bốn ngàn (12) pháp Ba la mật; mũi thường được ngửi mùi hương của pháp thân thường trú (13) vô lượng nhiệm mầu cùng khắp mười phương của chư Phật.

Đã phát nguyện về tỉ căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Lê Đà Pháp Phật

Nam mô Ứng Cúng Dường Phật

Nam mô Độ Ưu Phật

Nam mô Nhạo An Phật

Nam mô Thế Ý Phật

Nam mô Ái Thân Phật

Nam mô Diệu Túc Phật

Nam mô Ưu Bác La Phật

Nam mô Hoa Anh Phật

Nam mô Vô Biên Biện Quang Phật

Nam mô Tín Thánh Phật

Nam mô Đức Tinh Tấn Phật

Nam mô Diệu Đức Bồ tát

Nam mô Kim Cang Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến cho đệ tử tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.

THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THIỆT CĂN (lưỡi)

Lại nguyện xin ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh trong sáu đường, khắp mười phương, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, lưỡi không nếm vị nơi thân thể của hết thảy chúng sanh bị thương hay bị giết; lưỡi không nếm hết thảy vị bị tự tử; lưỡi không nếm vị huyết tủy của các loài chúng sanh; lưỡi không nếm vị thuốc độc của oan gia đối đầu; lưỡi không nếm vị ngon lành hay sanh tham ái phiền não.

Nguyện xin lưỡi thường nếm trăm món cam lồ mỹ vị; lưỡi thường hay nếm vị ăn uống tự nhiên của chư Thiên; lưỡi thường hay nếm vị cơm thơm ngon ở cõi Phật Hương Tích; lưỡi thường hay nếm các vị ăn uống của chư Phật; lưỡi thường hay nếm các vị đồ ăn do sức huân tu giới, định, huệ của pháp thân hiện ra; lưỡi thường hay nếm pháp hỷ, thuyền duyệt thực; lưỡi thường hay nếm vị ngon ngọt điều hòa của vô lượng công đức bồi bổ tư nhuần huệ mạng; lưỡi thường hay nếm vị giải thoát bình đẳng một màu; lưỡi thường hay nếm vị thù thắng nhiệm mầu, tối thượng an vui Niết Bàn, của chư Phật.

Đã phát nguyện về Thiệt căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Chơn Thật Phật

Nam mô Thiên Chủ Phật

Nam mô Lạc Cao Âm Phật

Nam mô Tín Tịnh Phật

Nam mô Bà Kỳ La Đà Phật

Nam mô Phước Đức Ý Phật

Nam mô Diệm Xí Phật

Nam mô Vô Biên Đức Phật

Nam mô Tu Thành Phật

Nam mô Sư Tử Du Phật

Nam mô Bất Động Phật

Nam mô Tín Thanh Tịnh Phật

Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát

Nam mô Tát Đà Bà Lôn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin tam bảo dủ lòng từ bi, thương xót che chở, khiến chúng con tên . . . được như sở nguyện, mãm bồ đề nguyện.

THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THÂN CĂN

Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh trong bốn loài, sáu đường ở khắp mười phương, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thân thường không giác xúc các cảnh ngũ dục tà mỵ; thân thường không giác xúc các cảnh vạc nước sôi, lò than nóng, nước giá lạnh trong các Địa ngục; thân thường không giác xúc các cảnh ngã quỉ đói khát, trên đầu lửa đốt, miệng nuốt nước đồng sôi, cháy nát tâm can, thân thể; thân thường không giác xúc các cảnh súc sanh bị lột da xẻ thịt đau đớn khổ sở, thân thường không giác xúc các cảnh khổ não, do bốn trăm lẻ bốn bệnh hoành hành; thân thường không giác xúc các cảnh đại hàn, đại nhiệt, không thể kham chịu; thân thường không giác xúc các cảnh muỗi mòng rận chí, sâu trùng cắn rứt; thân thường không giác xúc các cảnh dao gậy, thuốc độc làm hại; thân thường không giác xúc các cảnh đói khát khốn khổ đủ điều.

Nguyện xin thân thường giác xúc y phục nhiệm mầu của chư Thiên; thân thường giác xúc vị cam lồ tự nhiên; thanh thường giác xúc cảnh thanh lương, không lạnh không nóng; thân thường giác xúc cảnh không đói không khát, không bệnh, không não; thân thường giác xúc cảnh không dao gậy khổ sở; thân thường giác xúc cảnh thức ngủ điều yên ổn, không lo không sợ; thân thường giác xúc cảnh gió nhẹ thổi mát ở các cõi Tịnh độ của mười phương Phật; thân thường giác xúc cảnh tắm rửa thân tâm trong ao thất bảo ở các cõi Tịnh độ của mười phương Phật; thân thường giác xúc cảnh không đau khổ vì sanh già, bệnh, chết; thân thường giác xúc cảnh thân bay đi nghe pháp với chư vị Bồ tát một cách tự tại; thân thường giác xúc cảnh chư Phật nhập Niết Bàn cách tự tại.

Đã phát nguyện về thân căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Hạnh Minh Phật

Nam mô Long Âm Phật

Nam mô Trì Luân Phật

Nam mô Tài Thành Phật

Nam mô Thế Ái Phật

Nam mô Pháp Danh Phật

Nam mô Vô Lượng Bảo Minh Phật

Nam mô Vân Tướng Phật

Nam mô Huệ Đạo Phật

Nam mô Diệu Hương Phật

Nam mô Hư Không Âm Phật

Nam mô Hư Không Phật

Nam mô Việt Tam Giới Bồ tát

Nam mô Bạt Đà Bà La Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm phù hộ, nhiếp thọ, khiến chúng con tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.

THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ Ý CĂN

Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường, ở khắp mười phương, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, ý thường được biết thân sát đạo dâm; khẩu vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu là hoạn nạn; ý thường được biết giết cha hại mẹ, giết A la hán, làm thân Phật xuất huyết, phá sự hòa hiệp của chúng Tăng, hủy báng Tam bảo, không tin nhân quả đều là tội đọa vô gián địa ngục; ý thường được biết người chết rồi không mất; ý tin có nhân quả và sự báo ứng; ý thường được biết xa ác tri thức, ưa gần thiện tri thức; ý thường được biết theo tà sư ngoại đạo là phi pháp; ý thường được biết các pháp tam lậu (14) ngũ cái ([15]) thập triền ([16]) là hay chướng ngại đạo; ý thường biết tam đồ là chỗ khổ báo kịch liệt, tàn khốc của sanh tử đáng sợ.

 Nguyện xin ý thường biết hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh (tánh cách làm Phật); ý thường biết chư Phật là Đấng Cha lành, Đại Từ bi, là Đấng Vô thượng Y vương; ý thường biết hết thảy Tôn pháp là thuốc hay dùng trị bệnh của chúng sanh; ý thường biết hết thảy Hiền Thánh là mẹ lành săn sóc bệnh hoạn cho chúng sanh; ý thường biết quy y Tam bảo, thọ năm cấm giới, rồi tu thập thiện là những pháp hay chiêu tập quả báo tốt đẹp ở cõi người và cõi Trời; ý thường biết chưa khỏi sanh tử nên tu theo bảy pháp phương tiện ([17]) nên quán sát các pháp noản, đảnh ([18]); v.v. . . ý thường biết nên tu các pháp vô lậu, khổ nhẫn, mười sáu thánh tâm ([19]) thì trước phải tu mười sáu quán hạnh ([20]) quán sát tứ đế ([21]); ý thường biết tứ đế là bình đẳng vô tướng ([22]) cho nên chứng được tứ quả ([23]); ý thường biết tổng tướng ([24]) biệt tướng ([25]) của tất cả các pháp; ý thường biết mười hai nhân duyên, nhân quả ba đời, xoay vần luân chuyển không bao giờ ngừng; ý thường biết tu hành lục độ tám vạn tế hạnh; ý thường biết đoạn trừ tám vạn bốn ngàn trần lao; ý thường biết thể nhập được vô sanh nhẫn ([26]) thì quyết định dứt được sanh tử; ý thường biết được thứ lớp, đầy đủ phẩm vị, giai cấp của các Thập trú Bồ tát ([27]); ý thường biết dùng tâm Kim cang ([28]) đoạn trừ si ám vô minh ([29]) mà chứng được quả Phật vô thượng; ý thường biết thể tánh một phen chiếu sáng cùng cực rồi thì muôn đức đầy đủ; hoạn lụy nhiều kiếp đều sạch hết; chứng quả Đại Niết bàn; ý thường biết được mười trí lực ([30]) bốn vô úy ([31]) mười tám bất cộng ([32]) vô lượng công đức, vô lượng trí huệ, vô lượng thiện pháp của chư Phật.

Đã phát nguyện về ý căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

loading...