Kinh Phật
Kinh Phổ Môn (tiếng Việt, dễ đọc dễ hiểu)
Thứ năm, 28/12/2022 05:00
Kinh Phổ Môn là bài kinh nói về hạnh nguyện độ sanh của Bồ tát Quan Thế Âm, còn được biết đến với tên gọi là kinh Quan Thế Âm, Phẩm Phổ Môn. Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang.
>> DỮ LIỆU KINH PHẬT TRÊN PHATGIAO.ORG.VN
NGHI THỨC KHAI KINH PHỔ MÔN
1. DÂNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát ( 3 lần)
2. BẠCH PHẬT
Hôm nay là ngày......tháng......năm..............đệ tử chúng con phát nguyện trì tụng Kinh Phổ Môn, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam Bảo, Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cùng chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng từ bi chứng minh, gia hộ cho đệ tử chúng con tâm Bồ đề kiên cố, chí tu học vững bền, xa bể khổ nguồn mê, chóng quay về bờ giác. Lại nguyện cầu chư Phật phóng quang tiếp độ cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử chugns con, cùng tất cả chúng sinh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, vượt khỏi u đồ, siêu sanh Tịnh Độ
Nam mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát. ( 3 lần)
3. XƯNG TÁN ĐỨC PHẬT
Đấng pháp vương vô thượng, ba cõi chẳng ai bằng.
Thầy dạy khắp trời người, cha lành chung bốn loại.
Quy y trọn một niệm, dứt sạch nghiệp ba kỳ.
Xưng dương cùng tán thán, ức kiếp không cùng tận.
4. QUÁN TƯỞNG
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y
(1 tiếng chuông, 1 xá)
5. ĐẢNH LỄ TAM BẢO
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo (1 lạy).
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-bà giáo chủ điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương lai hạ sinh Di-lặc tôn Phật, Đại trí Văn-thù Sư-lợi Bồ-tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ pháp chư tôn Bồ-tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ-tát (1 lạy).
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh tịnh đại hải chúng Bồ-tát (1 lạy).
6. CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam ( 7 lần)
7. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu rị tu rị, ma ha tu rị tu tu rị, ta bà ha ( 3 lần)
8. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám ( 3 lần)
9. ÁN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vĩ tát bà ha ( 3 lần)
10. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng ( 3 lần)
11. TÁN DƯƠNG CHI
Đầu cành dương liễu vương cam lộ
Một giọt mười phương rưới cũng vừa
Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết
Đàn tràng thanh tịnh ở ngay đây
Liễu biếc phất bày muôn thế giới
Sen hồng nở hé vạn lâu đài
Cúi đầu ca ngợi dâng hương ngát
Xin nguyện Từ Bi ứng hiện ngay
Nam-mô Thanh Lương Địa Bồ Tát ( 3 lần)
12. CHÚ ĐẠI BI
Nam-Mô Đại Bi hội thượng Phật, Bồ tát (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại đại bi tâm, đà la ni. Nam-Mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-Mô a lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam-Mô tất kiết lật đỏa y mông, a dị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam-Mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam-Mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam-Mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. ( 3 lần)
Nam mô Thập phương Thường trụ Tam bảo ( 3 lần)
13. VĂN PHÁT NGUYỆN
Lạy đấng Tam Giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện rộng
Thọ trì Kinh Phổ Môn
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ muôn loài
Đều phát lòng Bồ Đề
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 lần)
14. KỆ KHAI KINH
Phật pháp cao siêu rất nhiệm màu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm màu
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát ( 3 lần)
KINH PHỔ MÔN
Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo, bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán Thế Ám Bồ- tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.
Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ-tát: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này, một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát”.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ-tát này vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền đặng chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước Quỷ La-sát, trong đó nếu có nhân đến một người xưng danh hiệu Quan Thế Âm Bồ-tát, thời các người đó đều dạng thoát khỏi nạn quỷ la-sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
Nếu có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc mà đặng thoát khỏi.
Nếu quỷ dạ-xoa cùng la-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán Thế Ám Bồ-tát, thời các quỷ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm, xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Ám Bồ-tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiêu của báu, trải qua nơi đường hiêm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, vị Bồ-tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu, thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này”.
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát”. Vì xưng danh hiệu Bồ-tát nên liền đặng thoát khỏi.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Đại Bồ-tát sức oai thần cao lớn như thế.
Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Ám Bồ-tát, liền đặng ly dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bô-tát, liền đặng lìa lòng giận.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, liền đặng lìa ngu si.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ” danh hiệu, thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này”.
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát, liền sanh con trai phước đức, trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức thần như thế.
Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ-tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát.
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ- tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó có nhiều chăng?
Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất nhiều”. Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Âm Bồ-tát đặng vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế”.
Ngài Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ-tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?”.
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ-tát: Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật dạng độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ-tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Duyên giác mà đặng độ thoát liền hiện thân Duyên giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh văn đặng độ thoát, liền hiện thàn Thanh văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Phạm vương đặng độ thoát, liền hiện thân Phạm vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát, liền hiện thân Đế Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng quân đặng độ thoát, liền hiện thân Thiên Đại Tướng quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân tiểu vương đặng độ thoát, liền hiện thân tiểu vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân trưởng giả đặng độ thoát, liền hiện thân trưởng giả mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân cư sĩ đặng độ thoát, liền hiện thân cư sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân tể quan đặng độ thoát, liền hiện thân tể quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân bà-la-môn đặng độ thoát, liền hiện thân bà-la-môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn đặng độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhơn cùng phi nhơn đặng độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang thần đặng độ thoát, liền hiện thân Chấp Kim Cang thần mà vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát.
Quán Thế Âm Đại Bồ-tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị “Thí Vô Úy”.
Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát”. Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ, giá trị trăm nghìn lượng vàng, đem trao cho Ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này”.
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Ám Bồ-tát rằng: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”.
Bấy giờ Phật bảo Quán Thế Ám Bồ- tát: “Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ-tát này và hàng tứ chúng, cùng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na- la, ma-hầu-la-già, nhơn và phi nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó”.
Tức thời Quán Thế Âm Bồ-tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn, phi nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của phật Đa Bảo.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta-bà.
Lúc đó, Ngài Vô Tận Ý Bồ-tát nói kệ hỏi Phật rằng:
Thế Tôn đủ tướng tốt,
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhơn duyên gì
Tên là Quán Thế Âm?
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn Đức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỷ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm đặng.
Hoặc ở chót Tu-di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhựt treo không
Hoặc bị người dữ rượt
Rơt xuống núi kim cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc tù cấm, xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã, đặng giải thoát
Nguyền rủa, các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở hại nơi bổn nhơn.
Hoặc gặp la-sát dữ
Rồng độc, các loài quỷ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng. Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc, khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ, sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền đặng tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ:
Địa ngục, quỷ, súc sanh
Sanh, già, bịnh, chết, khổ
Lần đều khiến dứt hết.
Chơn quán thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhựt phá các tối
Hay tiêu tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng Bi răn như sấm
Ý Từ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tán.
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm âm, hải triều âm
Tiếng hơn thế gian kia,
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc Tịnh Thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
Bấy giờ Ngài Trì Địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm “Quán Thế Âm Bồ-tát Đạo Nghiệp Tự Tại, Phổ Môn Thị Hiện sức Thần Thông” này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít”.
Lúc Phật nói phẩm “Phổ Môn” này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM.
CHƠN NGÔN VIẾT:
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị sa ba hà. ( 3 lần)
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN
Án ma ni bát di hồng. (108 lần) (C)
HỒI HƯỚNG
1. XƯNG TÁN ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
Phổ môn thị hiện
Cứu khổ nhân sinh
Thuyền từ lướt sóng
Bốn biển điêu linh
Trùng dương vọng tiếng hồn kinh
Quán Ám ứng hiện chúng sinh thoát nàn.
Nam-mô Thánh Quan Tự Tại Bồ- tát Ma-ha-tát. (3 lần)
2. MƯỜI HAI LỜI NGUYỆN CỦA BỒ TÁT QUÁN ÂM
- Chí tâm đảnh lễ: Khi hành Bồ- tát, danh hiệu tôi Tự Tại Quán Âm, viên thông thanh tịnh căn trân, nơi nào đau khổ tầm thanh cứu liền.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Không nài gian khổ, quyết một lòng cứu độ chúng sanh, luôn luôn thị hiện biển Đông, vớt người chìm đắm khi dông gió nhiều.
Nam-mô Quán Thế Ấm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Ta-bà ứng hiện, chốn u minh nhiều chuyện khổ đau, oan gia tương báo hại nhau, nghe tiếng than thở mau mau cứu liền.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Thanh trừ yêu ái, bao nhiêu loài ma quỷ gớm ghê, độ cho chúng hết u mê, dứt trừ nguy hiểm không hề nhiễu nhương.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Tay cầm dương liễu nước cam lồ rưới mát nhân thiên, chúng sanh điên đảo đảo điên, an vui mát mẻ ưu phiền tiêu tan.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Thường hành bình đẳng, lòng từ bi thương xót chúng sanh, hỷ xả tất cả lỗi lầm, không còn phân biệt sơ, thân, mọi loài.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Dứt ba đường dữ, chốn ngục hình ngạ quỷ ? súc sanh , cọp beo, thú dữ vây quanh, Quán Âm thị hiện chúng sanh thoát nàn.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Tội nhân bị trói, bị hành hình rồi lại khảo tra, thành tâm lễ bái thiết tha, Quán Âm phù hộ thoát ra nhẹ nhàng.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Làm thuyền cứu vớt, giúp cho người vượt khúc lênh đênh, bốn bề biển khổ chông chênh, Quán Âm độ hết an nhiên Niết-bàn.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Tây phương tiếp dẫn, vòng hoa thơm, kỹ nhạc, lọng tàn, tràng phang, bảo cái trang hoàng, Quán Âm cứu độ đưa đường về Tây.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Di Đà thọ ký, cảnh phương tuổi thọ khôn lường, chúng sanh muốn sống miên trường, Quán Âm nhớ niệm Tây phương mau về.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Tu hành tinh tấn, dù thân này tan nát cũng đành, thành tâm nỗ lực thực hành, mười hai câu nguyện độ sanh đời đời.
Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. (Lạy 1 lạy)
3. BÁT NHÃ TÂM KINHMA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát- nhã Ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát đỏa y Bát-nhã Ba La Mật Đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật, y Bát-nhã Ba La mật đa cố đắc A Nậu Đa La tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba-la-mật-đa, thại Đại thần chú, thị Đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị Vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú tức thuyết chú viết:
" Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha ( 3 lần)"
4. VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na. Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
5. XƯNG TÁN PHẬT A DI ĐÀ
Phật A Di Đà thân kim sắc,
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
Năm Tu-di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ-tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (c)
Nam mô A Di Đà Phật ( 108 lần)
Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát (108 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ-tát ( 3 lần)
Mam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát ( 3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát ( 3 lần)
6. SÁM CẦU AN
Con quỳ lạy Phật chứng minh,
Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền,
Cầu cho tín chủ hiện tiền,
Nội gia quyến thuộc bình yên điều hòa,
Thọ trường hưởng phước nhàn ca,
Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi.
Quán Âm phò hộ vui chơi,
Mười hai câu nguyện độ đời nên danh,
Thiện nam tín nữ lòng thành,
Ăn chay niệm Phật làm lành vái van.
Quán Âm xem xét thế gian,
Rước người chìm nổi,
Mười phương phiêu trầm,
Mau mau niệm Phật Quán Âm,
Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa,
Đương cơn lửa cháy đốt ta,
Niệm danh Bồ-tát hóa ra sen vàng.
Gió giông đi biển chìm thuyền,
Niệm danh Bồ-tát sóng tan hết liền.
Tà ma quỷ báo khùng điên,
Niệm danh Bồ-tát mạnh liền khôn ngoan.
Vào rừng cọp rắn nghinh ngang,
Niệm danh Bồ-tát nó càng chạy xa.
Tội tù ngục tối khảo tra,
Quán Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.
Bị trù, bị ếm mê man,
Quán Âm niệm niệm vái van tịnh bình.
Quán Âm thọ ký làm tin,
Tùy duyên thuyết pháp độ mình hết mê. Nương theo Bồ-tát trở về,
7. TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nẵng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẫm. A bát ra để, hạ đa xá ta nẵng nẩm. Đát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. ( 3 lần)
8. NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời thường an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Từ Bi thường gia hộ. (3 lần)
Nam-mô Tiêu Tai Giáng Cát Tường Bồ-tát. ( 3 lần)
9. HỒI HƯỚNG
Cầu an công đức vô biên
Xin đem hồi hướng mọi miền gần xa
Chúng sanh pháp giới bao la
Đều về Cực Lạc Di Đà Tây Thiên. (C)
Nguyện tiêu ba chướng não phiền
Nguyện mở trí tuệ vô biên sáng ngời,
Nguyện trừ tội chướng bao đời
Hành theo Bồ-tát đời đời vị tha. (C)
Nguyện sanh Tịnh Độ Di Đà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
10. PHỤC NGUYỆN
Nam-mô Thập phương thường trụ Tam bảo chứng minh,
Nam-mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam-mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Nam-mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ-tát chứng minh, hôm nay, đệ tử chúng con một dạ chí thành trì tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, cầu nguyện cho Phật tử (họ tên... pháp danh... địa chỉ...), hiện đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bệnh tiêu trừ, thân tâm thường lạc, gia đình hưng thịnh, quyến thuộc an hòa, pháp giới chúng sanh, trọn thành Phật đạo.
11. TAM TỰ QUY
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát tâm vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy vô ngại. (1 lạy).
Cách tụng niệm và ý nghĩa của Kinh Phổ Môn
&nb