Sách Phật giáo
Nền tảng đạo Phật và học thuyết Tây Phương Cực Lạc (P.3)
Thứ ba, 18/05/2017 08:56
Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn hết? Chúng ta phải biết chánh niệm tỉnh giác từng tâm niệm của mình, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mặc y, ôm bình bát đi khất thực đều tỉnh giác; khi ăn uống đều tỉnh giác; khi đi đại tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi đứng, nằm, thức, ngủ, nói năng hay yên lặng đều tỉnh giác”.
TẬP ĐẾ LÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CÁC KHỔ ĐAU
Cái nguyên nhân chính là dục tức là lòng ham muốn không có giới hạn như biển sâu không đáy. Con người khổ vì ham muốn sống đời không chết nên cố luyện trường sinh bất tử, ham muốn chiếm đoạt, ham muốn khoái lạc về vật chất lẫn tinh thần, ham muốn tình cảm, nói tóm lại con người ham muốn đủ thứ hết dù phải rơi vào vòng tội lỗi. Tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến là những nguyên nhân dẫn đến khổ đau của kiếp người.
a) Tham muốn khác với mong muốn
Có hai loại muốn mà ai cũng có thể bị nó chi phối là tham muốn và mong muốn. Tham muốn là sao? Là nhất quyết muốn cho bằng được, nếu không được thì bất mãn, tức tối, khó chịu; phiền muộn, giận dỗi phát sinh và tìm cách chiếm đoạt. Do đó, tham muốn càng nhiều thì càng phát sinh các thứ phiền não vì tham muốn mà không được như ý, nếu được thì tham càng thêm tham, nếu tham không được thì sinh ra giận hờn, khó chịu rồi tìm cách trả thù.
Như chúng ta đã biết, ít ai trong cuộc đời này sống không tham muốn. Có sự sống là có tham muốn, nhưng tham muốn nhiều hay ít là tùy theo sở thích của mỗi người mà thôi. Tham có nghĩa là tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn, làm cái gì cũng muốn đem về cho riêng mình, dù có của dư thà để mục nát chứ không dám đem ra giúp đỡ một ai. Mong muốn có nghĩa là mong cầu, ước mơ, nếu có cũng được, không có cũng không sao.
Tham muốn và mong muốn khác nhau ở chỗ đó, một đàng muốn cho bằng được, nếu không được thì nổi giận, oán hờn, tìm cách trả đũa và quyết tâm chiếm đoạt cho mình nên bất chấp luân thường đạo lý, có khi cũng phải giết người để thỏa mãn lòng tham muốn. Trong cuộc sống này chúng ta có quyền ước mơ, mong muốn chớ đừng nên tham muốn quá đáng mà làm khổ đau cho nhau.
Tham muốn và mong muốn khác nhau ở chỗ đó, một đàng muốn cho bằng được, nếu không được thì nổi giận, oán hờn, tìm cách trả đũa và quyết tâm chiếm đoạt cho mình nên bất chấp luân thường đạo lý, có khi cũng phải giết người để thỏa mãn lòng tham muốn. Trong cuộc sống này chúng ta có quyền ước mơ, mong muốn chớ đừng nên tham muốn quá đáng mà làm khổ đau cho nhau.
Khi tham muốn được rồi lại muốn nhiều thêm nữa, muốn mà không được thì sinh ra sân hận tìm cách trả thù. Con người khi thiếu thốn quá cho rằng đó là khổ, bởi thiếu thốn nên ta mong muốn có được đầy đủ, nhưng mong muốn mà không được như ý là khổ, được rồi lại mất càng khổ hơn, mọi đau khổ ở đời đều do nguyên nhân chính là dục. Thân xác chúng ta luôn luôn có những nhu cầu cần được thoả mãn như: ăn no, mặc ấm, ngủ nghỉ thoải mái, vui chơi giải trí nhà cao cửa rộng là những điều kiện mà ta cho là hạnh phúc, rồi đến các nhu cầu sinh hoạt khác như hưởng thụ khoái lạc, danh vọng, chức tước và quyền lực.
Vì cuộc sống này như vậy nên chúng ta không thể làm khác được, còn sự sống là còn có tham muốn, nhưng ta phải tham muốn thế nào cho phải lẽ. Ở đây Phật vì lòng từ bi chỉ cho ta biết thân-tâm này không thật ngã để mọi người bớt luyến ái, chấp trước mà làm khổ cho nhau. Thật ra, đã làm người khó có ai muốn ít biết đủ, chỉ một bề mong cầu được nhiều mà không bao giờ nhàm chán. Tham muốn càng nhiều thì tội lỗi càng phát sinh, càng gây ân oán, hận thù cho nhau không có ngày thôi dứt.
Do vô minh mà sinh ra vọng động. Do có vọng động mà sinh ra vọng thức. Do có vọng thức mà sinh ra phân biệt có đủ thứ ta, người, chúng sinh. Do có sự phân biệt ta người, mà sinh ra xúc chạm. Do có sự xúc chạm mà sinh ra cảm thọ. Do có cảm thọ mà sinh ra tham ái, luyến tiếc, và từ đó bám víu, dính mắc vào sự hiện hữu của nó, nên sống chết, khổ não, ưu sầu, buồn lo đủ thứ.
Chữ sân trong Hán cổ biểu hiện một môi trường sống, như khi con người cảm thấy không hài lòng, vừa ý, bực tức, xung đột, bất bình dẫn đến mâu thuẫn đối kháng, gây hận thù và làm khổ đau cho nhau. Sự tức giận của con người có nhiều cấp độ khác nhau, như nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, mắng chửi, giận dữ, quát tháo, hờn mát, oán thù, đánh đập, chửi bới, hù dọa, triệt tiêu và hủy diệt nhau.
Sân hận là âm Hán Việt, là từ ngữ chỉ chung cho loại phiền não có tính cách bốc lửa. Sân có nghĩa là nóng giận, mỗi khi có sự việc bất bình không được hài lòng, vừa ý là nó bộc phát mạnh ra bên ngoài. Hận có nghĩa là hờn mát âm ỉ sôi sục bên trong, nói cho đủ là giận hờn.
Một khi con người sân hận, cộng với giận hờn mà không đủ khả năng hóa giải, thì lâu ngày trở thành thù ghét, do đó lúc nào cũng muốn tìm cách trả thù hay rửa hận. Giận là lời nói tắt của từ nóng giận, hờn là từ nói tắt của chữ hờn mát, gọp chung lại là giận hờn.
Sân hận có nghĩa là giận hờn. Khi chúng ta giận hờn ai đó mà cứ ghìm mãi trong lòng thì lâu ngày trở nên thù hằn, ghét bỏ, âm ỉ tìm cách trả thù thích đáng, khi có cơ hội là ra tay liền. Giận hờn là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật, dù nặng hay nhẹ thì chắc chắn cũng làm tổn hại đến những người xung quanh. Không phải ai khi đã thức tỉnh chỉ một lúc là các tập khí, thói quen xấu dứt trừ được hết. Kết quả còn tùy theo sự huân tập tật xấu nhiều hay ít của mỗi người.
Trong khi đó, Phật dạy thân này do bốn chất đất, nước, gió, lửa hòa hợp lại mà thành, nên không có gì là thực thể cố định cả. Cái được gọi là ta, là của ta, nó cũng không thật, ai chấp vào đó thì sinh ra luyến ái, bám víu mà lầm tưởng là thật ta, nên mới chấp ngã rồi từ đó sinh ra chiếm hữu, ai nghĩ và làm như vậy tức là người vô minh nên lúc nào cũng sống trong đau khổ lầm mê.
Ý thức được khổ đau do sự si mê chấp ngã gây ra, mà con người đành lòng nhẫn tâm giết hại lẫn nhau để bảo tồn cái thân vô thường bại hoại này. Chúng ta thử lắng dừng tâm tư một chút, để nhìn thấy rõ cuộc đời là một dòng trôi chảy biến thiên, không dừng hẳn ở một phút giây nào, không đứng mãi một vị trí nào.
Quan niệm cố giữ và chiếm hữu, là nguyên nhân của sự thấy biết sai lầm do sự si mê chấp ngã mà ra. Thân này rồi cũng phải già nua mà chúng ta muốn trẻ mãi không già, thân này bệnh hoạn đau nhức mà chúng ta muốn sống hoài không bệnh, thân này thở ra mà không còn thở vào thì coi như bị ngủm cù đeo mà chúng ta muốn sống hoài không chết. Một sự thật quá rõ ràng mà ít ai nhìn thấy, chúng ta thử quán chiếu cuộc đời này với những cái có hình tướng, coi nó có mãi trường tồn hay không.
Khi chúng ta mưu cầu tìm kiếm hạnh phúc cá nhân, tất nhiên ta phải đụng chạm đến nhiều người khác cũng đang tìm như ta vậy. Sự ham muốn quá đáng làm cho ta mù quáng, do đó chúng ta chỉ muốn hưởng thụ trên sự đau khổ của kẻ khác. "Chiến thắng mười vạn quân còn dễ hơn chiến thắng lòng mình, chúng ta tự thắng được mình là chiến công oanh liệt nhất".
Tương lai của chúng ta luôn là sự kết tinh với hiện tại, ngay tại đây và bây giờ ta được bình yên, hạnh phúc thì tương lai cũng sẽ hưởng được nhân quả tốt. Khi rơi vào trạng thái khổ đau quá lớn, ta hay trách móc người thân yêu, để rồi gặm nhấm nỗi đau mà than thân trách phận chứ không tự tìm ra lối thoát. Ta tự chấp nhận mình là kẻ khổ đau nhất trên đời này, chứ không chịu cho ai kéo mình thoát khỏi vực thẳm đen tối ấy.
Khi còn nhỏ dại và không đủ nhận thức sáng suốt thì em bé dễ hờn dễ khóc, nhưng chỉ cần người khác vỗ về đôi chút là em bé trở lại trạng thái bình thường. Vậy nên ta muốn có ánh sáng bình minh, muốn vượt thoát cơn khổ đau tuyệt vọng thì ta phải làm mới lại chính mình, bằng cách làm chủ bản thân từ thân miệng ý. Cây khô mọc theo triền núi một khi đã sống rồi thì dù có phong ba bão táp cũng không thể làm nghiêng ngã được. Ta cần phải sống lại con người chân thật thuở ban đầu như trẻ thơ hồn nhiên suốt năm tháng khi còn nhỏ.
Chúng ta phải dám nhìn nhận sự thật mới thấy thân tâm này là vô thường tạm bợ nên bớt tham đắm luyến ái mà tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mình và người. Chúng ta hãy thường xuyên quán chiếu như vậy nên thấy rõ mạng sống trong hơi thở là giảm bớt tham muốn quá đáng.
Vậy mà chúng ta cứ cắm đầu lo hết việc này đến việc khác, còn việc làm sao để gạn lọc thân tâm cho được trong sáng, tốt đẹp bớt tham sân si thì ta ít quan tâm tới. Phần nhiều phật tử đi chùa học Phật, chỉ muốn tu để đời sau được sung sướng hơn, đẹp đẽ hơn, nhiều của cải vật chất hơn, chớ không muốn được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Nhân quả báo ứng theo ta như bóng với hình, nổi khổ niềm đau sẽ theo ta từ đời này cho đến kiếp khác không có ngày thôi dứt, chính vì sự sống của mình mà chúng ta phải giết hại các loài vật.
Người tin theo truyền thống có ông trời tạo ra, cuộc đời của ta do trời sắp đặt, mọi sự thăng trầm nên hư thành bại đều do trời quyết định, con người không có khả năng và quyền lực gì cả, cuối cùng chấp nhận số phận đã an bài.
Học thuyết này chỉ phù hợp khi con người còn ăn lông ở lỗ, chưa có kiến thức nhận định đúng sai nên mới tin rằng có một đấng sáng tạo và con người bị điều hành, sai sử bởi đấng này. Ai tôn thờ và nương theo đấng quyền năng ấy thì có được cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, còn ai không theo sẽ bị đọa đày, đau khổ. Con người chỉ có con đường duy nhất, theo thì nên, không theo thì hư. Vậy học thuyết đó có đúng hay không?
Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người dễ nhận ra nguyên lý sống của vũ trụ, tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, không có gì là do một nhân mà có thể tồn tại trên thế gian này. Thời xa xưa, những hiện tượng như mưa gió bão bùng, sấm sét long trời lở đất, người ta cho rằng, đó là do thần linh hay thượng đế muốn răn dạy con người bớt làm các việc xấu ác. Nếu có ai chẳng may là nạn nhân của các hiện tượng này thì họ phương tiện nói rằng, có đấng quyền năng tối cao trừng phạt người làm việc xấu ác. Từ đó, lâu ngày thành ra phong tục, tập quán, rồi người ta cứ chấp chặt vào đó mà lung lạc lòng người, họ quên đi những điều rất thực tiễn gieo nhân nào thì được quả nấy.
Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật. Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người thế gian, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, để cùng nhau sống với trái tim hiểu biết.
Từ cái thấy thân kiến là cái thấy sai lầm về thân, tức chấp vào sự hiện hữu của cơ thể con người là tôi, là của tôi, nên từ đó bắt đầu chiếm hữu. Ai đụng đến cái tôi này thì có sự phản kháng mãnh liệt, do đó dấy khởi phiền não tham sân si, mà dẫn đến tranh đấu giành phần thắng lợi về cho riêng mình để loại trừ lẫn nhau.
Quan niệm về thân kiến này sẽ trường tồn mãi mãi và chỉ có hai con đường để ta chọn lựa, một là lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao, hai là xuống địa ngục chịu khổ đau lâu dài. Đó là cái thấy sai lầm do không có sự thể nghiệm thực tế, không có sự trải nghiệm bản thân, mà làm cho con người mất hết quyền làm chủ chính mình trong cuộc sống hiện tại.
Biên kiến là cái thấy một bên, nghĩa là có một linh hồn bất tử sống đời không thay đổi, tức là thường còn mãi mãi và quan niệm chết là hết, tức là không còn gì nữa, chỉ có một đời sống hiện tại mà thôi. Linh hồn bất tử là cái hồn sáng không bao giờ mất, nói như vậy có phù hợp với chân lý hay không?
Trên đời này có hai hạng người. Một hạng cho rằng, sau khi chết là hết, chỉ có một đời sống hiện tại, làm ác hay làm thiện gì cũng đều chung một số phận như thế. Đến khi nhắm mắt xuôi tay, từ giã cõi đời, thân thể trở về cát bụi và sự thấy nghe hay biết cũng không còn gì nữa, coi như hoàn toàn mất hẳn.
Hạng người thứ hai cho rằng có một linh hồn bất tử. Sau khi chết, thân thể tan rã, bại hoại, nhưng linh hồn vẫn còn mãi theo thời gian, nên người chết sinh người, trời chết sinh trời, thú vật chết sinh thú vật, trước sau như một không thể đổi thay. Vậy chết là hết hay sao? Làm gì có chuyện đó được! Nếu không hết thì làm sao mất hẳn?
Chết không phải là hết, mà chỉ là thay hình, đổi dạng, để có một đời sống mới tiếp theo, tùy sự gieo tạo nghiệp nhân tốt hay xấu ngay nơi hiện tại mà cho ra kết quả ở tương lai. Nghiệp lực tuy không có hình tướng cụ thể, không ai có thể trông thấy được, nhưng nó có sức mạnh chi phối, cuốn hút, hấp dẫn lạ thường. Cũng như gió, tuy không thấy hình tướng ra sao mà nó có thể làm nên phong ba bão táp, cuốn trôi tất cả khi đủ nhân duyên. Nghiệp lực cũng lại như thế.
DIỆT ĐẾ CHẤM DỨT MỌI KHỔ NÃO
Diệt đế tức là tiêu diệt, trừ diệt dục vọng lòng tham muốn quá đáng. Đế có nghĩa là lý lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu một cách rõ ràng không có mờ mịt, trừu tượng, ảo tưởng bằng ý thức. Diệt đế không phải là một cảnh giới siêu hình như các nhà học giả thường lầm tưởng, khi một người đã đoạn diệt lòng tham muốn và các ác pháp thì người đó sẽ thể nhập Niết bàn, chứ không phải tìm cầu đâu xa.
Diệt đế là trạng thái tâm đã hoàn toàn lắng trong không còn chút bợn nhơ, trong trạng thái này con người làm chủ sống chết an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh. Đức Phật gọi Diệt đế là một trạng thái tâm lý thật sự không còn khổ NÃO của kiếp người. Niết bàn có nghĩa là vô sinh. Thế cho nên, Diệt đế là Niết bàn, là cảnh giới không còn đau khổ luân hồi sống chết. Diệt đế là cuộc sống toàn thiện, chân thiện, thánh thiện.
Diệt đế là cuộc sống độc cư trọn vẹn nhưng vẫn làm lợi ích cho cuộc đời mà không toan tính. Diệt đế không phải là cảnh giới siêu hình để người tu hành chết được sinh vào đó. Diệt đế không phải là cảnh giới mơ hồ, trìu tượng, tưởng tượng hão huyền do sự tưởng tượng mà ra. Diệt đế là trạng thái chấm dứt khổ não hoàn toàn.
Danh từ để chỉ Niết bàn hay Diệt đế, có khi gọi là Phật tính, Chân như, Bản thể, Bản lai diện mục, Ông chủ. Thế cho nên, Niết bàn không phải là cảnh giới đến được mà là trạng thái tâm thường biết rõ ràng nói không thể đến. Khi chúng ta dừng tất cả mọi tham muốn lo âu, sợ hãi, giận hờn, ganh tỵ, tật đố đam mê thì ngay đó chính là Niết bàn.
BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG DIỆT KHỔ HOÀN TOÀN
Trong cuộc sống, nếu ta biết xem xét, chiêm nghiệm và áp dụng tám nguyên tắc trên trong mọi hoàn cảnh, ta sẽ thấy rõ ràng sự liên hệ nhân quả mật thiết, tương quan giữa những nguyên tắc ấy. Chúng ta hãy xem xét cho tường tận nguyên tắc thứ nhất là hiểu biết chân chánh, tức là sự thấy biết đúng như thật, thì hành động mới tốt đẹp, không làm tổn hại cho ai. Do đó, chánh kiến là rất cần thiết trong việc chọn lựa nghề nghiệp. Nhưng ta phải làm thế nào để thấy biết đúng?
Chi thứ nhất trong Bát Chánh Đạo là chánh kiến, có nghĩa là sở kiến, kiến giải, ý kiến, quan điểm. Chánh kiến ở đây không phải là sự thấy đơn thuần như mắt nhìn thấy các hình ảnh sự vật, mà phải là cái thấy đúng như thật, có nghĩa là thật biết thật, giả biết giả. Người có chánh kiến luôn luôn lúc nào cũng biết phân biệt và kiểm soát chặt chẽ các mặt hoạt động của thân và tâm, như suy nghĩ chân chánh về lời nói, việc làm, mạng sống và sự nỗ lực tinh tấn, để đạt được chánh niệm nhờ có định lực sâu dày.
Hiểu biết chân chánh là cái nhìn mọi hiện tượng, sự vật dưới nguyên lý duyên khởi, vô thường và vô ngã, tức không có chủ thể cố định, không có nguyên nhân đầu tiên của thế giới, không có thượng đế ban phước giáng họa, tất cả đều biến thiên, thay đổi, không thực thể.
Nếu sự tu tập đó được bắt nguồn từ chánh kiến, chánh tư duy, thì ắt hẳn chúng ta sẽ có lời nói chân chánh, không nói lời giả dối để lường gạt người. Ngược lại, nếu như không có chánh kiến mà là tà kiến, sẽ dẫn đến suy nghĩ bất chánh và làm những việc xấu ác, cuối cùng sẽ gặt lấy quả phiền muộn, khổ đau. Theo lời Phật dạy, sự thấy biết đúng như thật không phải do sự học hỏi trong sách vở hay suy tư, phân tích bằng trí thức. Sự thấy biết đúng như thật là kết quả của sự trải nghiệm, và nhờ vào sự chứng ngộ của bản thân do tu tập đúng pháp.
Muốn thành tựu con đường trung đạo, ta phải biết áp dụng Bát Chánh Đạo, như sự liên hệ tương quan, tương duyên mật thiết với nhau, bồi đắp cho nhau, mà không thể thiếu nhau. Tám nguyên tắc hành động này lúc nào cũng làm nhân và quả để hỗ trợ cho nhau, nếu mất một chi thì không thành tựu con đường trung đạo.
Thế nào là chánh kiến? Phật nói, khi ta hiểu lý nhân quả, không còn nghi ngờ, tức là chánh kiến; tức là thấy biết tất cả mọi hành động lành hay dữ, sẽ cho ra kết quả tốt hay xấu của mình. Đời trước, chúng ta có khi làm lành, có khi làm dữ, nên thân này có khi được vui vẻ, hạnh phúc, có lúc bị phiền muộn, khổ đau. Khi ta đã biết thân tổng báo này chịu ảnh hưởng nhân quả, nghiệp báo đời quá khứ, nên hiện tại mình phải nỗ lực tu hạnh lành, để chuyển hóa và thay đổi những nghiệp xấu ác trước nhẹ bớt. Ai thấy biết như thế là chánh kiến.
Chánh là ngay thẳng, đúng đắn. Kiến là nhận thấy, nhận biết. Nói cho đầy đủ, chánh kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách đúng đắn, công minh, đúng với sự thật khách quan, mọi sự vật, hiện tượng như thế nào thì thấy rõ như thế đó. Người có chánh kiến lúc nào cũng thấy đúng chân lý, thật biết thật, giả biết giả, không thấy trắng thành đen, không thấy tốt thành xấu, thấy rõ ràng như vậy, tuy không phân biệt mà vẫn thường biết rõ ràng. Chánh tư duy là chi thứ hai trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là suy nghĩ, nghiệm xét, suy tư, bằng sự ý thức của mình.
Chánh tư duy là sự suy nghĩ hợp lý. Suy nghĩ hợp lý có nghĩa là, tất cả mọi hiện tượng sự vật như thế nào thì chúng ta suy nghĩ như thế ấy, tức là suy nghĩ của mình và thực tế cuộc sống phù hợp nhau. Chánh tư duy là suy nghĩ chân chánh, đúng với lẽ phải, do có nghiệm xét, có nghĩa là suy tư phù hợp với nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã, như việc mình muốn có một cái nhìn chính xác về tình trạng xã hội hiện giờ đang tiến bộ hay bị tha hóa về mặt đạo đức tâm linh.
Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh. Muốn vậy ta phải xem xét, soi rọi, quán chiếu, chiêm nghiệm, không trái với sự thật mà vẫn phù hợp chân lý và đem áp dụng vào trong đời sống hằng ngày có lợi ích thiết thực cho mình và người khác. Chúng ta thường suy tư, quán chiếu tại sao con người phải chịu nhiều phiền muộn, đau khổ, bất hạnh trong đời, nguyên nhân vì sao? Nhờ thường xuyên suy nghiệm như vậy, ta biết do chấp ngã là ta, là của ta, nên muốn chiếm hữu và tham-sân-si từ đó phát sinh, làm cho người khác phiền muộn, khổ đau. Nhờ có chánh tư duy, ta mới sáng suốt, biết phân biệt những điều hay lẽ phải trong cuộc đời.
Đây là chi thứ 3 trong giáo lý Bát Chánh Đạo, được gọi là chánh ngữ, hay lời nói chân chánh, đúng đắn. Lời nói chân chánh bao gồm nhiều khía cạnh như nói lời thành thật, không nói lời giả dối nhằm mục đích để lường gạt mọi người; không nói lời nặng nề, thô lỗ, chát chúa, móc méo, mắng chửi làm người oán giận, thù hằn, mà sinh ra phiền muộn, khổ đau; không nói lời gây chia rẽ làm hai bên hiểu lầm nhau mà ganh ghét, tạo ra oan gia trái chủ, chống đối lẫn nhau; không nói lời mê hoặc để dụ dỗ người khác, không nói tán dóc đầu trên xóm dưới, và những điều không có lợi cho cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, cuộc sống của chúng ta cùng sự diễn biến của xã hội con người rất phức tạp và nhiều mâu thuẫn, nên mình cần phải ăn nói thận trọng, nên nói và làm tương ưng với mục đích mình đang đeo đuổi.
Thế cho nên, dân gian có câu: “Học nói ba năm, nhưng thực hành cả đời chưa chắc đã xong”. Ai hoàn thiện được lời nói chân chánh, Phật giáo gọi là chánh ngữ. Lời nói chân chánh bao hàm nhiều khía cạnh; Khi chúng ta muốn phát biểu một vấn đề gì, ta cần phải cân nhắc vào vấn đề cần nói, coi lúc này đã hợp thời chưa. Khi nói, ta cần phải xem xét lại vấn đề mình muốn nói đó có đúng với sự thật hay không, nếu chưa biết chính xác thì không nên nói.
Có hai cách thể hiện lời nói của mình là, chúng ta nên dùng cách nào cho phù hợp, nên cứng rắn, mạnh mẽ, hay khéo léo, uyển chuyển, nhẹ nhàng. Trước khi muốn phát biểu lời nói nào, ta cần phải cân nhắc xem lời nói ấy có lợi ích, hay ảnh hưởng không tốt trong hiện tại và mai sau hay không. Có hai cách thể hiện lòng mình qua lời nói, ta nói với lòng từ bi, thương xót, hay vì lòng ganh ghét, oán giận, thù hằn.
Nói lời thành thật là người sống có nhân cách đạo đức, là chất liệu của sự yêu thương chân thành, thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng, nhưng giúp ta có cơ hội sửa sai và chuyển hóa được lỗi lầm. Ngược lại, lời nói êm tai, ru ngủ rất được lòng người, nhưng đó là lời giả dối, nịnh bợ, ta gọi đó là ngọt mật chết ruồi, dễ làm hại người. Để đạt được những tình cảm qua lời ăn tiếng nói, thể hiện sự thành thật, chân tình, ta cần phải kiềm chế các cảm xúc tiêu cực như nóng nảy, giận dữ, để được sống vui vẻ, hài hòa với người thân yêu.
Ta không nên nói lời giả dối để lừa gạt hoặc hại người, mà cần nói lời thành thật với nhau bằng trái tim yêu thương, hiểu biết. Để cuộc sống ngày càng thăng hoa tâm linh, ta cần phải biết chọn lời hay ý đẹp mà nói, nói lẽ phải, tôn trọng sự thật. Sống trung thực giúp ta nâng cao phẩm chất đạo đức, làm lành mạnh các mối quan hệ gia đình, nên xã hội được tốt đẹp.
Có những lời nói thốt ra làm cho tan nhà nát cửa, mất nước, hại dân, nhưng cũng có những lời nói làm chúng ta biết sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Chính vì vậy, ta cần phải có chánh kiến, và biết tư duy để soi xét mọi sự vật để thấy đúng như thật. Cho nên, ta chuyện không nói không, chuyện có nói có, không nói dốc láo, nói lời bịa đặt, nói lời móc họng, nói lời hằn học, mắng chửi, không nói lời dụ dỗ, nói xấu sau lưng, làm cho mọi người nghi kỵ, thù địch nhau.
Chánh ngữ là lời nói hợp với chánh pháp, có lợi ích, đem lại an vui, hạnh phúc, bình yên cho nhiều người. Ta phải cẩn thận giữ gìn lời nói, nói lời chân thật, không nên nói lời vô nghĩa. Trong kinh Phật dạy: “Nói một lời đúng chánh pháp giúp cho người nghe cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, hơn là nói tràng giang đại hải mà không có lợi ích gì cho ai”.
Người biết nói lời chân chánh luôn luôn thận trọng, dè dặt khẩu nghiệp, không bao giờ nói sai sự thật, không xuyên tạc, không thiên vị, không nói lời dụ dỗ, không nói lời hằn học, mắng chửi, không nói lời vu oan giá họa. Lời nói chân chánh luôn giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc, ngược lại là lời nói làm tan vỡ hạnh phúc gia đình người khác, đó là lời nói thêm bớt, thêm mắm thêm muối, thay trắng đổi đen, làm sự việc trở nên căng thẳng, làm mọi người hiểu lầm nhau mà gây ra oán giận, thù hằn.
Chi thứ 4 trong bát chánh đạo là chánh nghiệp, hay còn gọi là nghề nghiệp chân chánh. Trong đó, bao gồm các thứ như nghề nghiệp, sự nghiệp, gia nghiệp, chức nghiệp, thương nghiệp, nghiệp vụ. Nói một cách dễ hiểu là nghề nghiệp, hay phương cách làm ra tiền để nuôi sống bản thân và gia đình. Có khá nhiều cách để kiếm tiền sinh sống, nhưng ở đây, Phật giáo muốn đề cập đến những nghề nghiệp chính đáng, hợp pháp, không làm tổn hại cho người và vật, nghề đó được gọi là nghề nghiệp chân chánh.
Chánh nghiệp là việc làm chân chánh, đúng đắn, phù hợp với lẽ phải, đúng với chân lý; ở đây cũng có nghĩa là việc làm phù hợp nguyên lý duyên sinh, nên lúc nào cũng được lợi ích cho mình và người. Ai biết thận trọng, giữ gìn mọi hành động thuận theo lý duyên sinh, chắc chắn sẽ đem lại kết quả tốt, không làm tổn hại đến quyền lợi, hạnh phúc của người khác.
Nghề nghiệp chân chánh là những nghề nghiệp nuôi mạng sống con người như làm ruộng, trồng hoa màu, các loại cây ăn trái, làm ra thức uống tinh khiết, nghề giáo dục, bác sĩ, bác học, khoa học, tâm linh. Ngược lại, dối trá, lừa đảo bằng nhiều hình thức để mưu cầu lợi ích cá nhân, mặc kệ sự tác hại của nó về lâu, về dài, là những nghề nghiệp làm tổn hại cho nhân loạị.
Chánh mạng là chi thứ 5 trong giáo lý Bát Chánh Đạo, hay còn gọi là cuộc sống chân chánh. Nếu nói chánh nghiệp là việc làm không ảnh hưởng và tổn hại đến người vật, nên nghề nghiệp chân chánh và cuộc sống phải phù hợp với lý duyên sinh. Sự khác biệt trong hai chi này là giữa việc làm và cuộc sống, nhưng nó sẽ hỗ trợ cho nhau, tạo nên nghề nghiệp và cuộc sống chân chánh.
Chánh mạng là nỗ lực chân chánh, một nghề nghiệp lương thiện, đó là mạng sống chân chánh. Nhưng thế nào là một nghề nghiệp được coi là lương thiện? Điều này cũng chỉ có thể trả lời bằng sự nhận xét về xã hội trên nguyên lý duyên sinh. Những phương tiện sinh sống không gây tai họa, khổ đau cho kẻ khác trong hiện tại cũng như trong tương lai, những phương tiện sinh sống không lừa đảo, không gieo rắc lầm lạc, không bóc lột kẻ khác, không vi phạm quyền tự do và bình đẳng của kẻ khác, không phá hoại môi trường sinh hoạt của con người, đó là chánh mạng.
Chánh mạng là mạng sống chân chánh, có nghĩa là con người sinh sống một cách chính đáng, có đời sống lương thiện, ngay thẳng, trong sạch, có tính đóng góp, phục vụ lợi ích cho tất cả mọi người. Người biết giữ gìn chánh mạng là người biết sống một đời có ý nghĩa, không bao giờ biết làm tổn hại cho ai. Sống bằng sự lao động chân tay hoặc trí óc thánh thiện, biết tôn trọng lẽ phải, biết tôn trọng quyền bình đẳng của con người và luôn sống đóng góp, sẻ chia, giúp đỡ nhân loại bằng tình người trong cuộc sống.
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp; hay nói cách khác là sự nỗ lực chân chánh, có ý nghĩa, lợi ích cho mình và người. Thế nào là sự nỗ lực chân chánh? Mục đích giáo dục của đạo Phật là tìm kiếm sự an lạc, hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát, nhờ ta siêng năng dứt trừ các điều ác từ trong ý nghĩ, hay làm việc thiện ích để giúp đỡ tha nhân.
Chánh tinh tấn là nỗ lực chân chánh tức là sự cố gắng liên tục trên mọi lĩnh vực làm việc và tu tập. Đây cũng là một phương pháp quan trọng liên kết trong Bát Chánh Đạo, nếu thiếu một chi nào thì cũng khó mà thành tựu đạo pháp. Nếu ta nỗ lực không theo nguyên lý duyên sinh thì không được gọi là chánh tinh tấn. Những nỗ lực nào hướng đến tham lam ích kỷ, oán giận, thù hằn, hay si mê, dại dột, làm đều bất chính, thì không được gọi là chánh tinh tấn, bởi những kết quả của sự nỗ lực này có thể làm mọi người phiền muộn, khổ đau, và không dẫn đến mục đích chính đáng.
Tinh tấn nỗ lực là hành động kiên trì, củng cố vững chắc cho sự tu tập hằng ngày của chúng ta, nhằm mục đích ngăn ngừa, tránh xa những điều tội lỗi, lại còn hay tăng trưởng các việc làm lợi ích để mang lại sự an lạc, bình yên trong cuộc sống. Tinh tấn mà không có trí tuệ thì không đạt được mục đích mong muốn. Tinh tấn có trí tuệ sẽ giúp ta l