Kiến thức

Nguồn gốc và ý nghĩa của lễ Trai đàn Chẩn tế

Thứ bảy, 29/05/2023 09:25

Lễ Trai đàn Chẩn tế hay còn gọi là Trai Đàn Thủy Lục là một pháp hội cúng chay và cầu siêu cho những vong hồn người chết không có ai thờ tự, không có nơi nương tựa, đang sống vất vưởng ở dưới nước và ở trên cạn.

Audio
Trai đàn chẩn tế kỳ siêu bạt độ là một pháp môn tu trong vô lượng pháp môn. Nó là một hình thức bố thí, gồm cả tài thí lẫn pháp thí.

Trai đàn chẩn tế kỳ siêu bạt độ là một pháp môn tu trong vô lượng pháp môn. Nó là một hình thức bố thí, gồm cả tài thí lẫn pháp thí.

Duyên khởi (nguồn gốc) của lễ Trai đàn Chẩn tế 

“... Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo Hòa thượng Đạo An [01], “vốn không phải là một tập tục truyềnthống của Phật giáo”. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường. Điều này có thể đúng vì theo sử chép, thì năm 738, vua Đường Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa Khai Nguyên (Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền Tông). Đó là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an. Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền trung ương. Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh này, số người chết - chiến sĩ của cả hai bên và thường dân - nhiều vô số kể. Triều đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh cầu siêu độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân. Dân chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh cầu siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho người chết trở thành một tập tục trong dân gian.”[02]

Tập tục cầu siêu độ này được truyền qua Việt Nam không rõ vào thời nào nhưng có thể bắt đầu từ thời đại nhà Lý. Đó là việc tổ chức các trai đàn chẩn tế, gọi là “diệm khẩu phổ thí pháp hội” có nghĩa là những đại hội về Phật Pháp để bố thíthức ăn cho loài quỷ đói. Pháp này được thực hành trên căn bản một tác phẩm mang tên là “Thí Chư Ngạ Quỷ Ẩm Thực Cập Thủy Pháp” do Ngài Bất Không (Amogha) dịch vào thế kỷ thứ tám, đời Đường. Và hiện nay, trong thời khóa tụng niệm buổi chiều, các chùa ở Việt Nam thường có một nghi thức thí thực cô hồn ngắn, gọi là Mông Sơn Thí Thực Văn. Nghi thức này bắt đầu từ đời nhà Tống tại Mông Sơn, tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Quốc, vì thế mới có danh xưng là "Mông Sơn Thí Thực".

Trong “Thiền uyển tập anh”: Tăng thống Huệ Sinh (-1064) đời vua Lý Thánh tông, có để lại tác phẩm “Pháp Sự Trai Nghi” nói đến nghi thức chẩn tế.

Vào năm 1789 sau khi đại phá quân Thanh năm Kỷ Dậu Vua Quang Trung đã ban sắc lệnh làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ hữu công và tiến cúng cô hồn tử sĩ, kể cả mấy vạn quân Thanh đã tử trận.

Vua Gia Long sau khi thống nhất sơn hà cũng thiết đàn siêu độ cho quan quân tử sĩ và những oan hồn uổng tử vì chiến cuộc do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành chủ tế với bài văn tế viết bằng quốc âm Tướng Sĩ Trận Vong và Cô Hồn Thập Loại (1802).

Vào năm Giáp ngọ, Chúa Nguyễn Phúc Chu cho tổ chức trai đàn tại chùa Linh mụ cầu cho quốc thái dân an, cho các quân linh tử trận được siêu thoát.

Và vào những năm đầu thập niên 70, do chiến tranh gây ra nhiều cảnh chết chóc hãi hùng, khoa nghi chẩn tế được thực hiện rất nhiều, nhất là tại Huế. Hầu như tháng nào ở đây cũng có ít nhất một đàn.

Ý nghĩa của lễ Trai đàn Chẩn tế

Theo niềm tin của người dân, lễ Trai đàn Chẩn tế nhằm cầu siêu cho người chết được siêu thoát và qua đó cũng cầu ancho người sống được an lạc. Trong tín ngưỡng dân gian này không thể thiếu vai trò của Phật giáo vì người dân quan niệm đạo Phật là đạo từ bi cứu khổ.

Theo giáo lý nhà Phật, Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, sự từ bi này không chỉ đối với người sống mà còn với người chết, không chỉ từ bi với con người mà còn từ bi với các loài chúng sinh không phải con người, từ bi bình đẳng đến cả các vong linh khổ não, các oan hồn uổng tử vất vưởng, không nơi nương tựa, lang thang khắp mọi nơi, mọi cõi, lang thang ở bụi dậm, bờ ao. Chính vì lòng từ bi đó mà người ta lập ra Trai đàn để cầu siêu cho các vong hồn được siêu thoát, hoá giải mọi tai ương hận thù mà người dân tin là có thể xảy đến, để cuộc sống được ấm no, yên ổn. Đó cũng là “điểm nổi bật của vai trò Phật giáo trong tập tục phong hóa dân gian chính là khuynh hướng “dân tộc hóa” nghi lễ tập tục Phật giáo, có nghĩa là hòa quyện hình thức nghi lễ giữa đạo và đời…” [03]

Theo Phật giáo, trong thế giới hiện tượng tương đối này, hết thảy vạn sự vạn vật đều chịu tác động bởi quy luật Nhân Quả. Tất cả đều có những tương quan tác động qua lại với nhau, duyên vào nhau mà sinh diệt, tồn tại. Do đó, các nghi lễ cầu an, cầu siêu và trai đàn phổ độ có thể được xem là những trợ duyên cho sự sống và sự chết của con người về mặt tinh thần. Đứng về phương diện đạo lý thường tình sống trong thế giới hiện tượng tương đối mà xét thì "lễ" là sự thể hiện cho cái "nghĩa" sống của con người, song để thể hiện cái "lễ" ấy thì cần phải dựa vào "nghi thức" để thực hiệncho phải lẽ.

Trong Phật giáo Nguyên Thuỷ không có kinh cầu siêu, kinh cầu an mà chỉ về sau các nhà sư Phật giáo Bắc tông, do nhu cầu phát triển nên uyển chuyển áp dụng các loại kinh khác nhau cho hai mục đích vừa nêu, ví dụ như dùng kinh A Di Đà và kinh Địa Tạng để cầu siêu cho người quá vãng, dùng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa và kinh Dược Sưđể cầu an cho người lâm bệnh… Phải chăng, ý nghĩa căn bản của cầu siêu và trai đàn chẩn tế phổ độ là để biểu tỏ tấm lòng chân tình thương mến người thân quá vãng, thương xót đồng bào tử nạn, thương xót những cô hồn đói lạnh và nhất là để an tâm cho người sống?

Chú thích:

[01] Giáo Khoa Phật Học cấp 2, do Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành

[02] Ngài Đạo An (312-385), một danh tăng lỗi lạc thời Đông Tấn, Trung Quốc. Ngài là đại đệ tử của ngài Trúc Phật Đồ Trừng, một vị đại tăng người Ấn Độ vào Trung Quốc truyền giáo. Do tình trạng chiến tranh Ngài đã phải rời bỏ quê hương Hà Bắc (nhà Hậu Triệu) dẫn đồ chúng khoảng 500 người chạy về thành Tương Dương lánh nạn và tu tập tại đâỵ Vào thời điểm này thì PG đã phát triển khá mạnh mẽ tại Trung Quốc, các vua chúa Trung Quốc nói chung đều rất sùng mộ đạo Phật, đặc biệt là vua Phù Kiên (nhà Tiền Tần) hùng mạnh nhất trong số 16 tiểu quốc thời đó vì hâm mộ danh tiếng của Ngài, đã đích thân mang nhiều ngàn quân đánh chiếm thành Tương Dương để cung thỉnh Ngài về làm quốc sự. Suốt đời Ngài chỉ lo hoằng dương chánh pháp, đệ tử theo học có đến hàng ngàn người. Ngài đã đào tạo nên những môn đệ rất lừng danh, trong đó có Ngài Huệ Viễn (hay còn gọi là Tuệ Viễn), được xem như là sơ tổ của pháp môn Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc.

[03] TT. Thích Đồng Bổn

loading...