Kiến thức

Nguyên nhân Đức Phật chế giới không sát sinh và diệu dụng

Chủ nhật, 05/05/2021 07:41

Giới không sát sinh bao gồm không giết hại từ người, các loài động vật như voi, ngựa, trâu, bò cho đến các loài nhỏ bé như côn trùng. Không những không giết hại mà còn không làm tổn thương, đau đớn cho con người và các loài.

Nguyên nhân Đức Phật chế giới không sát sinh

Bấy giờ vào một mùa An cư, Phật dạy cho chúng Tỳ kheo hành trì pháp môn quán sát 32 uế vật trong thân, cốt để nhàm chán thân thể, trừ ái dục, gọi là quán bất tịnh. Một số đông Tỳ kheo sau khi đắc quả nhờ pháp tu này, đâm ra chán ghét thân thể xú uế bèn đem y bát của mình thuê một người đồ tể giết giùm cái thân. Trong một ngày mà trong vườn Cấp Cô Độc có đến sáu mươi người chết theo cách ấy. Khi giải hạ, thấy số chúng đến yết kiến Phật giảm thiểu, hỏi nguyên do, Phật bèn quở trách sự hủy hoại thân thể. Thay vì quán bất tịnh, bấy giờ Phật dạy các Tỳ kheo quán hơi thở và các pháp quán tịnh như quán màu sắc các loại hoa xanh, vàng, đỏ, trắng, hư không, ánh sáng… gọi là quán biến xứ hay kasina. Đồng thời Phật cho biết, các vị A-la-hán ấy hủy hoại thân thể là do dư báo của nghiệp “sát” lâu xa về trước, đến khi đắc quả họ vẫn còn phải thọ báo lần cuối cùng. Tất cả những vị ấy xưa kia đều đã từng làm nghề đồ tể giết hại súc sinh [1].

Vì sao không nên sát sinh?

Sự sống vô cùng quý giá, nên Đức Thế Tôn luôn luôn tôn trọng sự sống, bất cứ sự sống nào, từ sự sống của côn trùng cho đến sự sống của cỏ cây.

Sự sống vô cùng quý giá, nên Đức Thế Tôn luôn luôn tôn trọng sự sống, bất cứ sự sống nào, từ sự sống của côn trùng cho đến sự sống của cỏ cây.

Diệu dụng của giới không sát sinh

Giới không sát sinh bao gồm không giết hại từ người, các loài động vật như voi, ngựa, trâu, bò cho đến các loài nhỏ bé như côn trùng. Không những không giết hại mà còn không làm tổn thương, đau đớn cho con người và các loài. Người Phật tử cũng không bảo người khác, bày mưu kế cho người khác làm các việc hành hạ, giết hại chúng sanh các loài. Khi thấy người khác đánh đập, sát hại con người và súc vật thì sinh lòng thương xót và khuyên can ngăn cản. Sự từ bi của chúng ta đối với chúng sinh dựa trên đạo lý: bởi vì ai cũng yêu quý cuộc sống của chính mình, không muốn bị hành hạ hoặc giết hại. Khi ta đặt mình vào trạng thái của chúng sinh và cảm nhận tình trạng đó, người ta sẽ từ bỏ việc sát hại. Phật thuyết trong kinh Pháp cú rằng:

Hình phạt ai cũng sợ

Mất mệnh, ai cũng khiếp

Lấy ta suy ra người

Chớ giết, chớ bảo giết [2]

Như vậy, không sát sinh xuất phát  từ lòng bi và lòng từ đối với tất cả chúng sinh. Ai có lòng từ bi, người đó không bao giờ sát hại. Tư tưởng bất hại cũng mang lợi ích, niềm vui cụ thể cho chính người thực hành. Phật giáo quan niệm rằng, theo luật nhân quả thì người làm lành, không giết hại sẽ gặp hạnh phúc và không bị hại. Từ đó người ta có thể suy ngược lại rằng, ai ôm ấp tư tưởng sát hại, không có lòng từ bi sẽ tự đưa mình đến những hoàn cảnh bất hạnh. Sự giữ giới không sát sinh nhằm mục đích bảo vệ công bằng, mọi chúng sanh đều muốn sống sợ chết, mọi chúng sanh đều có Phật tánh như nhau. Giữ giới không sát sinh là nuôi dưỡng lòng từ bi, người có lòng nhân không nỡ sát hại người hay vật. Trong Bước đầu học Phật, Hòa thượng Thanh Từ có giảng về lợi ích của việc giữ năm giới như sau: “Không sát sanh, bản thân không bị người giết hoặc tù tội về giết người, cũng không có thù hận về nợ máu với nhau. Thế là sống chúng ta không kinh hoàng sợ hãi do thù hận gây nên.[3]

Giữ giới là phương pháp tập tu trái tim tình cảm làm cho tâm hồn trở nên sinh động, đầy cảm xúc thanh cao, quân bình hoà điệu trái tim và khối óc, hay nói cách khác hoà điệu ý, tình, trí vươn tới con người toàn diện.

Giữ giới là phương pháp tập tu trái tim tình cảm làm cho tâm hồn trở nên sinh động, đầy cảm xúc thanh cao, quân bình hoà điệu trái tim và khối óc, hay nói cách khác hoà điệu ý, tình, trí vươn tới con người toàn diện.

Cái giá của việc sát sinh hại vật

Nói cách khác, vì thương yêu chúng sanh, không phân biệt loại nào, chúng sanh nào cũng tham sống sợ chết, cũng cảm thấy đau khổ khi bị xâm phạm thân thể, cảm nhận đựơc niềm đau của chúng sanh như nỗi đau của mình, vì thế mình giữ giới không giết hại. Tâm cảm thông và thương yêu ấy đưa đến giữ giới một cách tự nhiên không gượng ép. Người giữ giới sát sinh luôn luôn có tâm an ổn, nét mặt hiền hòa. Một cách lý tưởng, nếu mọi người trên thế giới đều giữ giới không sát sinh thì thế giới không còn chiến tranh giết hại nữa (“Nhất thiết chúng sanh vô sát nghiệp, thập phương hà xứ động đao binh”). Giới luật của Đạo Phật nói chung và giới bất sát sinh nói riêng không do sự mặc khải của một thần linh nào mà bởi Đức Phật với cái nhìn Tuệ nhãn đã thấy rõ hạnh phúc hay khổ đau, lợi ích hay tai hại đều từ nơi những hành động thiện hay bất thiện của mỗi con người tạo ra, từ đó Ngài thiết lập giới luật. Giới luật là nguyên tắc đạo đức giúp cho chúng sanh nương vào để trau dồi đạo hạnh và ngăn ngừa điều xấu ác. Đây là nguyên tắc cơ bản của sự tu tập, là căn bản đạo đức làm người, là đức tính cơ bản của luân lý, là chiếc cầu nối đưa đến an lạc Niết bàn. Đó cũng là yếu tố để xây dựng nền tảng hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Sự sống vô cùng quý giá, nên Đức Thế Tôn luôn luôn tôn trọng sự sống, bất cứ sự sống nào, từ sự sống của côn trùng cho đến sự sống của cỏ cây.  Kinh sách dạy rằng Ngài không đổ các đồ ăn dư thừa của mình trên bãi cỏ xanh hay trong nước có các loài côn trùng nhỏ. Do vậy, Đức Phật khuyên chúng ta không nên sát sanh vì rằng mọi chúng sanh hữu tình đều sợ chết và xem sự sống là điều quý báu nhất trên đời. Đối tượng chúng sinh trong giới cấm thứ nhất của Đạo Phật là hữu tình chúng sinh, tức là những chúng sinh có hệ thần kinh, có tình cảm, biết cảm giác, biết đau đớn và vui sướng. Chúng sinh ấy bao gồm từ người cho tới các loài động vật trên bộ, trên không và dưới nước, từ những con vật lớn như voi tượng, như cá ông cho đến các con vật nhỏ bé như kiến, như sâu trùng. Từ quan điểm nơi mỗi cá thể chúng sinh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật nên có đặc tính bình đẳng. Do đó, người Phật tử chúng ta không những không thể sát hại chúng sinh mà còn phải tôn trọng và bảo vệ chúng sinh dù là loài vật, vì chúng cũng có quyền sống, có quyền được chia sẻ môi sinh trên trái đất, nơi mà con người đang ở.

Giới được thiết lập trên nền tảng Từ bi, là tình thương đối với mọi chúng sinh.

Giới được thiết lập trên nền tảng Từ bi, là tình thương đối với mọi chúng sinh.

Sát sinh và quả báo hiện tiền

Bản chất của chúng sinh, dù loài nào, cũng đều ham sống sợ chết. Giết hại chúng sinh tức là gây cho chúng sinh sự đau đớn về thân thể và sự tuyệt vọng khi lòng ham sống bị đe dọa và xâm phạm. Hơn nữa, cái chết của một chúng sinh luôn luôn đồng nghĩa với sự chia lìa thân quyến. Khi một chúng sinh bị đe dọa đến mạng sống, chúng cũng có những phản ứng tự vệ, ít nhất là phát ra những nỗi oán hờn thù hận đến những ai định tâm sát hại chúng. Tại sao chúng ta làm đau đớn hay hủy hoại mạng sống của chúng trong khi chúng ta muốn sống và không muốn ai hành hạ chúng ta? Lòng từ bi của Phật giáo được biểu lộ không chỉ riêng đối với tất cả nhân loại mà còn được biểu hiện qua thái độ bất hại đối với tất cả loài thú vật và thảo mộc. Với từ ngữ “Bất hại” không có nghĩa là “không va chạm”. Nó có nghĩa là “không tàn phá” và “không hủy diệt”. Đó là một thái độ truyền thống của Đạo Phật được bắt nguồn từ lời dạy của Đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ.

Tóm lại, là người con Phật, hàng Thích tử chúng ta phải đặt mục tiêu trí tuệ lên hàng đầu. Học thôi chưa đủ mà phải có thực nghiệm của sự tu đạo. Ta phải thực hành bằng phương pháp hành trì giới luật để trang nghiêm pháp thân. Như thế mới tiếp nối được chí nguyện người trước, không cô phụ chí nguyện của mình, lại tạo được niềm tin đối với người sau, làm cho ánh sáng giới luật ngày càng quang huy xán lạn. Do vậy, nếu một con người, một xã hội, một quốc gia biết áp dụng giới luật vào đời sống hằng ngày thì điều chắc chắn con người đó, xã hội đó sẽ không còn cảnh đầu rơi máu đổ, ân oán hận thù không còn xảy ra trong cuộc sống. 

Chú thích:

[1] Ni sư Trí Hải (soạn dịch) (2010), Sự tích giới luật, NS. Trí Hải soạn dịch, NXB. Tôn giáo, 2010, tr. 6

[2] Thích Thiện Siêu (dịch) (2000), Kinh Pháp cú, Thích Thiện Siêu dịch, NXB. Tôn giáo, 2000, tr. 41

[3] Thích Thanh Từ (2001), Bước Đầu Học Phật, Thích Thanh Từ, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2001, tr. 33

loading...