Sách Phật giáo

Những câu chuyện nhân quả có thật trong đời sống (*)

Thứ hai, 30/12/2017 02:17

Tôi viết quyển sách nhỏ này với lòng chân thành rút ra từ kinh nghiệm sống trong tận đáy lòng. Tôi ước mong được thấy mọi chúng sinh được sống trong an vui hạnh phúc, trái đất này được mãi xanh và tươi đẹp, giữa con người với con người biết yêu quý tôn trọng lẫn nhau.

THAY LỜI TỰA

Trên đời này, hạnh phúc và khổ đau; chiến tranh và hòa bình; giàu và nghèo… nếu chúng ta chịu khó tu tập một chút và giữ tâm thật bình thản, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều hay vô cùng. Có nhiều người có cùng một miếng đất, cùng một hột giống, nhưng người có kết quả tốt, người thì lại không?

Có người sinh ra trong một gia đình giàu có, thừa hưởng một gia tài lớn của ông bà cha mẹ để lại, nhưng tại sao một thời gian sau thì lại bị nghèo? Có người khi còn sống thông minh bặt thiệp về mọi phương diện, nhưng họ đã dùng mọi mưu xảo đi lường gạt người khác dưới nhiều hình thức khác nhau để có một gia tài thật lớn, thế mà cuối cùng họ ăn cũng không ăn được ngon, ngủ không được yên, rồi để người khác giựt lại và chết một cách thảm thiết?!

Nhiều người có quyền uy vào bậc nhất trên trái đất này, từ cha truyền con nối từ mấy trăm năm, đi đâu cũng có hàng trăm ngàn người tung hô vạn tuế; nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thôi, uy quyền, thân thế lại tan theo mây khói?!

Có người khi sống tiền bạc của báu chất để đầy kho, nhưng khi chết không có một cái hòm để chôn?!

Tôi là một người được đào luyện trong môi trường khoa học, gần 50 năm nay sống và làm việc trên nhiều nước khác nhau. Tôi đã để tâm quan sát và nghiên cứu về vấn đề luật nhân quả. Tôi quan sát tìm hiểu, điều tra cặn kẽ theo tinh thần khoa học khách quan không thiên vị hẹp hòi dù bất cứ hoàn cảnh nào. Đôi lúc tôi lấy ngay chính bản thân cuộc đời tôi làm điều thí nghiệm về sự thật nhân quả. Tôi thấy đúng vô cùng. Việc thí nghiệm của tôi lập đi lập lại nhiều lần trong nhiều trường hợp và hoàn cảnh khác nhau, đều thấy rõ sự thật nhân quả rất chính xác, rất khoa học và công bằng mà không ai có thể chạy thoát được.

Người gây tội lỗi, phạm luật của một đất nước, của tổ chức họ, họ có thể tìm cách trốn đi nước khác hay tung tiền bạc ra lo lót chạy tội hoặc mướn nhiều luật sư giỏi để thoát khỏi tù tội. Nhưng tôi quan sát thật kĩ, họ không sao thoát khỏi luật nhân quả.

Tập sách nhỏ này không phải là một hồi ký, phóng sự hay cổ tích mà là sự tổng hợp những nghiên cứu và kinh nghiệm sống của nhiều cá nhân viết và kể ra những sự thật. Sự ra đời của tập sách nhỏ này không có mục đích bêu xấu hay chỉ trích một cá nhân nào hay tổ chức nào hết, mà để cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm để sống và làm việc tốt hơn, cùng có sự an vui hạnh phúc trong cõi đời này. Xin quý bạn đọc cũng nên quan sát và tham gia nghiên cứu về sự thật nhân quả này. Quý vị hãy quan sát thật kĩ có những người chung quanh bạn, họ có nhiều tiền của, nhiều quyền uy, nhiều danh vọng…nhưng họ không tin nhân quả, chuyên môn đi lừa đảo, bóc lột người khác dưới nhiều dạng khác nhau. Quý bạn hãy quan sát thật kĩ sắc diện và cuộc sống của họ, ít được an vui mà lại thường gặp nhiều trắc trở, chính họ và gia đình họ thường gặp nhiều tai nạn, hoặc nhiều khi phải đợi gần cuối cuộc đời thì họ mới trả nghiệp báo thật nặng.

Trong cuộc sống hằng ngày, nếu chúng ta may mắn gặp được một người thầy hay một người bạn mà biết tin nhân quả, tôi nghĩ đó là việc đại phúc đức, vì vị thầy tin nhân quả sẽ đem tất cả những điều hay, những chân lý dạy cho học trò mà không bao giờ hướng dẫn học trò đi đường sai quấy. Người bạn tin nhân quả cũng vậy, họ vì tin nhân quả không bao giờ dám làm điều sai quấy gây đau khổ cho người khác. Nếu chúng ta được may mắn làm bạn với người tin nhân quả, đó là một phước báu lớn, vì họ sẽ không bao giờ làm mình đau khổ, không bao giờ họ gây khó khăn. Khi chúng ta thiếu và cần việc gì họ sẵn sàng chia sẻ, giúp đở cho chúng ta. Nếu chúng ta có tiền hùn hạp làm ăn với người tin nhân quả, họ có lời họ cũng sẽ chia cho mình, họ không nỡ gạt mình. Mà nếu lỡ họ có gặp khó khăn và bế tắc họ cũng gạt mình 20 phần trăm hay phân nửa mà thôi, phần còn lại mình vẫn có thể sống, chứ nếu kẻ không tin nhân quả thì chắc chắn họ sẽ gạt luôn mình 100 phần trăm.

Tôi tin tưởng, nếu mọi người trên thế giới này ai cũng tin nhân quả, quyết tâm tránh xa điều ác, nguyện làm điều lành, thì thế giới này sẽ có hòa bình an vui hạnh phúc.

Xã hội chúng ta hiện tại được gọi là văn minh tiến bộ, khoa học mỗi ngày mỗi phát triển, giúp ích rất nhiều cho con người, nhưng con người càng lúc càng khổ đau, càng bấn loạn nhiều thứ, càng nhiều hận thù, càng nhiều tranh chấp mưu toan để chèn ép bóc lột lẫn nhau dưới nhiều hình thức, vì vậy mà nhiều tai nạn, thiên tai động đất, bão lụt ở nhiều nước trên thế giới, rồi chiến tranh hận thù tranh chấp tranh giành đủ thứ chuyện khắp nơi. Hàng trăm ngàn chuyện tham lam ích kỉ khác xảy ra cũng vì lý do không tin nhân quả.

Luật nhân quả đã được chứng minh từ hàng ngàn năm qua, rất chính xác và công bằng, nhưng vì con người vô minh, lòng tham không đáy nên họ đã làm càn mọi thứ, thế là họ phải lãnh đau khổ trong nhiều trường hợp khác nhau.

Tôi cố gắng sưu tập tài liệu rồi viết cuốn sách nhỏ này với lòng chân thành mong mỏi mọi người trên trái đất này cần phát triển lòng tin nhân quả, tôn trọng lẫn nhau, phát nguyện không bao giờ làm khổ chúng sinh, kể cả việc tôn trọng môi sinh. Khi ăn quả thì phải nhớ kẻ trồng cây, khi uống nước thì phải nhớ nguồn. Cây cối cho chúng ta không khí để thở để sống, như vậy hãy tôn trọng tuyệt đối môi sinh. Nếu mọi người đều tin nhân quả và tôn trọng lẫn nhau như những điều nói trên, tôi tin hòa bình và an vui hạnh phúc sẽ đến chắc chắn với mọi người.

Sau đây là những câu chuyện thật về nhân quả, người viết, người kể có bằng chứng rõ ràng. Rất mong mỏi quý đọc giả đọc xong và chuyển cho người khác cùng đọc. Người người cùng nhau phát triển niềm tin nhân quả, đây là cách thiết thực mà bạn đang đóng góp cho an vui và hạnh phúc của gia đình và đất nước bạn đang sống. Mong quý bạn chia sẻ nhiều câu chuyện thật khác liên quan về sự thật nhân quả, để tác phẩm sau được tiếp tục phong phú hơn. Tin nhân quả chính là mật pháp thật sự đưa tới hòa bình thành công, an vui hạnh phúc cho cá nhân và xã hội, nên tôi mạnh dạn chia sẻ với quý bạn đọc và thân hữu trong quyển nhỏ này.

Thành kính tri ân quý vị!

Việt Nam Phật Quốc Tự - Lâm-tỳ-ni,
Phật lịch 2554
Ngày Trăng tròn tháng tư Tân Mão

Thích Huyền Diệu
Thầy Thích Huyền Diệu trụ trì Việt Nam Phật Quốc Tự, Ấn Độ
1. Sự thật quả báo

Nhân dịp phái đoàn chiêm bái đất Phật từ Úc sang từ ngày 18/10-31/10/2010, tôi đón đoàn tại phi trường Kathmandu và đưa đoàn lên vùng Himalaya thăm viếng và tu tập. Himalaya là vùng núi non hiểm trở, nhiều linh thiêng huyền bí mà bao nhiêu người từng mơ ước được viếng thăm và ở lại đây một thời gian.

Nhiều sách vở đã viết về sự huyền bí của vùng Himalaya đã thu hút biết bao tâm hồn yêu quý thiên thiên. Mỗi đoàn chiêm bái đất Phật do tôi hướng dẫn đều đặt cho một cái tên. Đoàn này tôi cho một cái tên hơi ngộ nghĩnh là đoàn Diễm phúc An vui. Mọi người phấn khởi vui mừng nhưng nhiều vị vẫn thắc mắc hỏi tôi về ý nghĩa cái tên đoàn. Cứ như vậy mà nhiều người trong đoàn cứ hỏi đi hỏi lại nhiều lần.

Tôi đợi vào một buổi sáng thật đẹp khi mặt trời lên thật cao để mọi người ngắm nhìn dãy núi tuyết hùng vĩ, thế là tôi kể chung cho mọi người cùng nghe: trong lục đạo được làm thân người là diễm phúc lắm, dù có nhiều khổ đau, khó nhọc nhưng cũng có nhiều điều hay, nhiều điều thú vị. Trên thế giới hiện nay có hàng trăm triệu người không có đủ cơm ăn áo mặc, hơn một tỷ người không có nước sạch mà dùng và hàng trăm triệu người không có đủ thuốc để uống khi bệnh hoạn, nhưng quý vị trong phái đoàn là những người có diễm phúc lớn nhất trong trần gian này có phải vậy không? Vì quý vì đã có cơm ăn áo mặc đầy đủ, có nhà cao cửa rộng, có đầy đủ tiện nghi vật chất, có tiền bố thí và có tiền đi du lịch đi chiêm bái nhiều nơi… Mọi người lặng thinh nghe tôi nói, có vị rất xúc động và không ai trả lời gì hết rồi mặt trời càng lúc càng lên cao mây mù càng lúc càng tan dần và dãy núi tuyết Himalaya càng hiện rõ hơn, mọi người cùng tập trung chăm chú ngắm nhìn sự hùng vĩ cũa Himalaya. Có người bật khóc như trẻ thơ và có người hốt hoảng chạy tới hỏi tôi tại sao có những hiện tượng như vậy? Đứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ của nơi linh địa, họ bừng tỉnh cảm được một số việc làm họ không cầm được nước mắt, từ đó nhiều người rất siêng năng tu tập dưới sự hướng dẫn của tôi và một vài vị trong đoàn bổng nhiên lại đề nghị mỗi người nên kể ra một câu chuyện nhân quả thật xảy ra trong cuộc đời mà mỗi người đã chứng kiến. Thế là những câu chuyện thật về quả báo được mọi người trong đoàn lần lượt kể trong nhiều ngày, tôi ghi âm và biên chép lại làm thành cuốn sách về những câu chuyện nhỏ này.

Những câu chuyện thật về quả báo được kể ra thật chi tiết và rất cảm động.

Sau quyển sách Tình Thương Và Lòng Độ Lượng tập 1 được nhiều độc giả yêu thích, nhiều người yêu cầu viết tiếp quyển thứ 2, thế là tôi bắt đầu viết tiếp quyển thứ 2 được hai tuần. Nhưng khi thầy Nhuận Đạt cùng các Phật tử tu tập ở Việt Nam Phật Quốc Tự yêu cầu tôi nên viết cuốn sách về sự thật quả báo trước. Các vị này nói rằng cuốn sách này ra đời có thể đóng góp nhiều điều tốt cho xã hội đầy biến động hiện nay. Các vị cũng nói rất tin tưởng về những chuyện sự thật quả báo này bằng mắt thấy tai nghe đã xảy ra trong đời này, có thể kéo con người trở về với con đường tốt đẹp của chân thiện mỹ, con đường của tình thương, của từ bi và trí tuệ để giảm bớt sự đau khổ của nhiều người.

Suốt mấy bữa liền sau những buổi uống nước trà ngắm nhìn bình minh và hoàng hôn ở Việt Nam Phật Quốc Tự, các vị cứ đem đề tài này ra nói, nên tôi tạm không viết tiếp quyển 2 Tình Thương Và Lòng Độ Lượngmà chuyển sang viết đề tài Nhân Quả này.

Cuộc đời tôi đã tận mắt chứng kiến quả báo nhãn tiền trên đất Phật đã đến với tôi ngay trong cuộc đời này, phải thanh thoát bình tĩnh lắm mới thấy được sự thật, sự công bằng của luật quả báo.

Luật pháp của từng quốc gia khác nhau, người phạm luật có thể trốn tránh hay có thể mướn luật sự giỏi để chạy tội hay có thể dùng nhiều phương cách để thoát tội nhưng luật nhân quả thì không sao tránh được, có bao nhiêu tiền của, bao nhiêu thế lực… cũng không sao thay thế được và người gây tội lỗi phải trả quả báo dưới nhiều hình thức khác nhau ngay trong đời này.

Chúng ta phải bình tĩnh và tinh tế lắm mới thấy rõ điều này. Tôi là người được đào tạo trong môi trường khoa học Âu Mỹ, tôi đã kiểm chứng luật nhân quả này rất nhiều lần, nhiều nơi trên thế giới trong nhiều trường hợp khác nhau thấy rất công bằng và chính xác. Như trong quyển sách Hòa Bình Nepal Trong Tầm Taytôi viết ở Lâm Tì Ni nơi đức phật Thích Ca giáng trần, tôi có đề cập đến một nhân vật Việt Nam nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Tôi đã từng ở gần một thời gian với vị lãnh tụ này, và tôi kiên nhẫn quan sát thật kỹ hành động và những việc làm của vị này gần 40 chục năm từ khi gặp ở Việt Nam và khi sang Ấn Độ, sau đó vị này nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Lãnh tụ này bằng mọi cách gây ảnh hưởng dưới nhiều dạng khác nhau, tìm cách thu tiền có tổ chức có phương pháp rất tinh vi và không từ bỏ phương tiện nào miễn sao để đạt được mục đích. Một tổ chức khá vĩ mô được xây dựng lên đầy công phu, tinh vi miễn sao kiếm được nhiều tiền và xây dựng thân thế bất chấp những thiệt hại, khổ đau cho người khác!

Theo những nguồn tin đáng tin cậy vị này sau nhiều năm tổ chức tinh vi, tích lũy tiền bạc của cải trên 20 triệu đô la Mỹ. Với một người không cần làm gì nặng nhọc mà có được số tiền lớn như vậy quả là đặc biệt. Chúng ta mỗi người đi làm mướn từ lục địa này sang lục địa khác, từ nước này qua nước nọ, lao động liên tục nhiều năm chưa kiếm được một triệu bạc thế mà vị này không cần di chuyển làm việc nặng nhọc chi hết mà vẫn thu được từ mọi người gần 20 triệu đô la Mĩ. Thật là lạ lùng! kỳ hoặc không thể tưởng tượng được!? Nếu số tiền này được nằm trong tay người có tâm lành thì làm được biết bao nhiêu việc thiện để cứu vớt chúng sinh. Nhân vật lãnh đạo tối cao của tổ chức này chắc chắn tin tưởng một cách chắc nịch rằng, với một tài sản vô cùng to lớn như vậy sẽ mặc sức mà sống hưởng thụ hàng ngàn năm để thưởng thức, có thể cùng với những vị thân thích, đoàn tùy tùng, thân bằng quyến thuộc và các học trò của ông ta hưởng thụ dù đến trăm năm cũng khó hết được. Nhưng hỡi ôi, định luật nhân quả do chư Phật, chư tổ, chư thánh hiền đã thuyết giảng từ bao nghìn năm nay đã cho chúng ta thấy rõ như mặt trời tỏa chiếu. Tiền của thì đầy ắp, chức vụ danh vọng của vị này thì chất cả xe… nhưng trước khi chết, vị lãnh tụ này không ăn uống chi được hết trong nhiều năm mà phải nhờ cái máy ăn dùm, nghĩa là mỗi lần ăn bác sĩ phải dùng bằng ống nhựa đưa vào miệng tới bao tử rồi bơm vitamin vào để có đủ chất để sống. Cứ như vậy mà kéo dài nhiều năm, nhưng việc đơn giản như đi vệ sinh toilet cũng phải nằm ngay tại chỗ… còn nhiều cảnh đau khổ và hãi hùng khác cứ vùi dập lên vị lãnh tụ đó, nghe nhiều người kể lại mà lạnh người. Chúng ta kể lại những sự thật về nhân quả không phải để bêu xấu bất cứ ai, mà muốn làm phương tiện sáng tỏ thí dụ cụ thể về sự thật mà chư Phật và chư vị thánh nhân đã dạy, đã kể để chỉ dạy chúng sinh, nhưng chúng sinh vì vô minh mà khinh thường những định luật vũ trụ nên họ phải gánh chịu những kết quả hãi hùng như vậy. Vị lãnh tụ này sau nhiều năm nằm một chỗ, những cảnh tượng đau khổ ập về, vị lãnh tụ không thể nói nên lời, chỉ co ra co vào hai ngón tay nghe vu vu, và chỉ biết khóc trong lặng lẽ mà không ai có thể thấu hiểu được vị lãnh tụ muốn nói gì, nhắn nhủ gì với những người đi thăm. Nhiều ngưới cứ thắc mắc biểu hiện như vậy là thế nào? Có lúc tôi gặp được bậc chân sư, tôi có đem việc lạ này để hỏi, ngài kể lại và tâm sự rằng vị lãnh tụ đó muốn nói mọi người đừng bao giờ gây tội lỗi cho người khác, đừng lạm dụng của tam bảo, của đàn na tín thí như vị lãnh tụ đã làm. Còn hai bàn tay co ra co vào là muốn nói số tiền 20 triệu đó bây giờ để ở đâu và ai quản lý.

Sau khi vị lãnh tụ ấy qua đời, nhiều tranh cãi giữa thân bằng quyến thuộc với học trò đệ tử tông môn khá sôi động, mà người biết chuyện đó khá rõ là bà Bùi Thị Sâm pháp danh Diệu Nhung ở Pháp. Bà Sâm nay đã trên 80 tuổi mà sức khỏe vẫn còn tốt, và Bà biết rất nhiều chuyện quả báo nhãn tiền. Bà kể lại câu chuyện và nói không chỉ thầy làm không phải thì thầy chịu mà trong thân bằng quyến thuộc con cháu cũng bị quả báo lây, nhiều điều tai nạn khủng khiếp xảy ra cho các người thân cận. Nếu có dịp nào thuận tiện hơn chúng ta sẽ trở lại câu chuyện này chi tiết hơn. Nếu sức khỏe cho phép và có đủ nhân duyên tôi sẽ kể về sự thật quả báo này, một quả báo hiện tiền ngay trong đời này chứ không phải đợi đến đời sau. Đúng là những gì chư Phật, chư ThầyTổ, chư vị Tôn Sư chỉ dạy đều đúng 100 phần trăm.

2. Gạt tiền chùa

Mỗi lúc nhàn rỗi tôi và thầy U. Nyaneinda, trụ trì chùa Miến điện thường ngồi chung cùng uống trà nói nhiều chuyện, trong đó có những chuyện về nhân quả đời này. Thầy và tôi có nhiều điểm giống nhau nên rất thân, tuy nhiên vẫn có nhiều điểm không giống nhưng chúng tôi biết hòa đồng nhân nhượng tôn kính lẫn nhau, nên mọi việc điều tốt đẹp. Chúng tôi đều đồng ý quan điểm bà con xa không bằng láng giềng gần, nên rất lưu tâm giúp đỡ những người sống gần chùa.

Gần chùa có một gia đình biết chùa cũng gần 20 năm nên thầy cả rất tin tưởng và thương quý, đó là gia đình anh Yadaw Kuma. Anh là người thường xuyên giúp đỡ cho chùa mỗi khi có việc cần. Một hôm anh chạy qua chùa Miến điện (tôi cũng có mặt ở đó) anh ta xin mượn thầy cả 40 ngàn rupees để mua 2 con bò sữa kiếm tiền nuôi con ăn học. Anh năn nỉ Thầy cả để mượn tiền và hứa sẽ hoàn trả đầy đủ trong vòng 6 tháng.

Những năm 1985, 40 ngàn rupees là tương đối lớn, bằng 1 năm thu nhập của những người lao động trung bình. Anh Yadaw Kuma ngày nào cũng qua chùa năn nỉ Thầy cả mượn tiền để lo cho gia đình và công việc. Trước tình cảnh thương tâm và nhiều ngày năn nỉ như vậy cuối cùng Thầy cả cũng xiêu lòng, Thầy lấy tiền chùa và đi mượn các chỗ khác cho đủ 40 ngàn rupees để cho anh ta mượn. Ngày cho anh Yadaw Kuma mượn tiền, Thầy có cho mời tôi qua uống trà và có lẽ cũng để làm chứng việc thầy cho anh mượn tiền. Khi thầy đưa tiền cho anh có sự hiện diện của tôi, Thầy nói đi nói lại nhiều lần đây là tiền chùa, tiền linh thiêng, tiền của những tấm lòng thành tâm cúng dường tam bảo, Thầy nói đúng ra thầy không có quyền lấy tiền cho anh mượn, nhưng vì thương hoàn cảnh của anh đang khó khăn nên giúp đỡ. Thầy đề nghị anh nên cố gắng trả lại cho chùa càng sớm càng tốt, chậm nhất là 6 tháng. Anh ta trả lời chắc nịch: “Nhất định con sẽ trả lại cho Thầy đúng kỳ hẹn, thầy đừng lo!”. Nói xong anh cầm số tiền lạy tạ Thầy cả 3 lạy với vẻ mặt mừng khó tả, rồi anh ta quay sang tôi xá lia lịa nói cảm ơn, cảm ơn.

Không phải tiền của tôi mà anh ta cảm ơn ríu rít như vậy tôi lấy làm ngạc nhiên, sau này tôi mới hiểu anh ta tưởng tôi có cho Thầy cả mượn một số tiền nhưng thật ra tôi không có cho thầy mượn đồng nào cả, mà tôi chỉ là người có mặt để chứng kiến anh mượn tiền Thầy cả thôi.

Thời gian 6 tháng trôi qua khá nhanh Thầy cả có nhắc anh trả tiền phần nào để xây dựng chùa nhưng anh cứ tìm cách trì hoãn. Vài ngày vài tuần vẫn không thấy anh trả, từ đó anh ít lui tới chùa vì sợ Thầy cả đòi tiền. Thế là một hôm nhân có sự hiện diện của tôi cùng uống trà ăn bánh ngọt mới từ Miến Điện gởi qua, Thầy nhờ chú thị giả qua mời anh Yadaw Kuma qua cùng uống trà ăn bánh. Khi anh ta qua thấy chúng tôi vui vẻ uống trà với nhau thì anh bỗng dưng òa lên khóc nức nở và nói vợ con đang đau nặng mà không đủ tiền đưa vợ đi nhà thương. Gặp cảnh thương đau như vậy tôi và thầy cả còn an ủi anh rồi mọi người mỗi người một ít đóng góp để anh kịp đưa vợ đi nhà thương. Vài hôm sau tôi gặp mấy người hàng xóm để hỏi thăm về bệnh tình của vợ anh ở nhà thương ra sao, mới vỡ lẽ là vợ anh ta không có bệnh đau gì cả, chị ta rất khỏe mạnh ở nhà cùng mấy đứa con lấy sữa bò bán kiếm tiền. Tôi thấy hơi ngạc nhiên và đem chuyện này nói lại cho Thầy cả biết trong một buổi uống trà nhàn rỗi. Thầy cả nghe xong có vẻ trầm ngâm và linh tính có gì đó không tốt xảy ra. Thầy nói với tôi: “Có lẽ thằng Yadaw Kuma đã gạt lấy số tiền mà cách đây mấy tháng mình cho nó mượn. Mình thấy nó khó khăn nghèo khổ nên mượn giúp nó, nhưng tôi có cảm tưởng số tiền mình cho mượn và tấm lòng tốt của những người khác sẽ mất”. Tôi thấy Thầy nói với giọng trầm trầm và buồn buồn nên tôi vội an ủi: “Chắc thằng Yadaw Kuma đang gặp khó khăn nên chưa trả được thôi”, tôi nói với thầy vẫn còn hi vọng. Nhưng Thầy nói tiếp: “Mình vì thương người mà bị nạn”.

Sau đó khoảng một tuần lễ, nhân có lễ hội lớn tại Bồ Đề Đạo Tràng nhiều người đến dự trong đó có những nhân vật nổi tiếng của tiểu bang Bihar và địa phương, có lẽ Thầy cả cũng nhân cơ hội này chính thức đòi tiền lại cho dễ hơn chăng? Đúng như tôi đã nghĩ, khi lễ gần xong mọi người ra về khá nhiều, chỉ còn vài nhân vật thân với Thầy cả cùng ngồi với tôi uống trà, bất chợt thầy thấy hai vợ chồng Yadaw Kuma đi qua, thầy cũng mời lại ngồi uống trà thế là Yadaw Kuma cùng ngồi vào bàn uống trà và anh ta mở miệng khen năm nay lễ hội tổ chức rất lớn và rất vui, lại có những nhân vật cấp cao đến dự. Anh cũng tán thưởng khen các nhân vật VIP cùng ngồi uống trà ăn bánh. Mọi người cùng ngồi uống trà trò chuyện thì Thầy cả bất chợt nói với Yadaw Kuma nên trả lại phần nào số tiền cho chùa, để có mà sửa chữa một số nơi đang xuống cấp và hư nát. Khi thầy hỏi Yadaw Kuma một cách nhẹ nhàng và khiêm tốn thì anh liền hứ một cái thật lớn làm mọi người giựt mình để ý ngay, Yadaw Kuma lại hứ lên một cái nữa rồi nói một cách rất tự nhiên: “Con đã trả tiền cho Thầy hết rồi mà sao thầy còn đòi nữa? Có thể mấy hôm trước Thầy bị bệnh nên trí nhớ bị quên chăng? Con đã trả tiền thầy ngay tại chỗ thầy đang ngồi đó”. Tôi thấy Thầy cả có vẻ ngạc nhiên sửng sốt trước những lời tự nhiên của Yadaw Kuma, nhưng thầy vẫn bình tĩnh nói: “Vậy sao, vậy sao!” rồi Thầy tiếp: “Nếu anh đã trả tiền cho chùa rồi thì anh hãy đứng dậy đưa tay lên trời nói đi nói lại 3 lần: tôi đã trả tiền chùa rồi.” Thầy vừa nói xong Yadaw Kuma đứng dậy làm ngay. “Con đã trả tiền cho Thầy đầy đủ rồi!” Anh nói đi nói lại 5 lần chứ không phải 3 lần như Thầy cả yêu cầu.

Tôi ngồi đó đếm rất kỹ bằng tiếng Hindi. Ai cũng phì cười vì giọng tiếng Hindi của tôi mang chưa đủ mùi cà ri nị, người nghe biết ngay là không phải dân Ấn Độ chính gốc. Tôi đếm rất nghiêm túc, tôi thấy anh Yadaw Kuma một tay đưa lên trời một tay đưa sau lưng mà nói. Nói xong anh ngồi xuống rót trà uống một cách tự nhiên, cách tự nhiên ấy làm mọi người rất tin tưởng vào lời hứa của anh mà chỉ riêng có Thầy cả và tôi biết sự thật mà thôi.

Sau đó Yadaw Kuma và mọi người điều ra về hết chỉ còn 2 chúng tôi ngồi lại uống trà trong bóng đêm với ngọn lửa bập bùng. Thầy cả và tôi ngồi yên lặng một khoảng hơi lâu không nói gì hết, màn đêm từ từ buông xuống, sương cũng bắt đầu dày đặc. Tôi thì nghĩ ngợi lung tung và tận sâu trong tâm hồn tôi thấy rất buồn cho nhân thế! Tôi nghĩ một người có đầy đủ đức độ như Thầy cả vậy mà họ vẫn nhẫn tâm đi lừa gạt Thầy, thật bất nhân và vô lương tâm! Thầy cả cho Yadaw Kuma mượn tiền là để giúp nó những lúc khó khăn chứ có ăn tiền lời đồng nào đâu, sao Yadaw Kuma có thể làm phiền một vị chân tu như vậy?

Thầy cả vẫn trầm ngâm không nói, Thầy suy nghĩ về lời nói của Yadaw Kuma đã hứa “con đã trả tiền cho thầy rồi”! Ánh lửa bập bùng thỉnh thoảng lại nhỏ rồi to, tôi thấy nét mặt của thầy buồn buồn, tôi cũng buồn theo, sự lặng thinh vẫn tiếp diễn ánh lửa khi mờ khi lu tạo thêm vẻ thê lương của cuộc đời nhiều đen bạc, của sự vô ơn bạc nghĩa…

Đêm về khuya, trời càng lạnh, ngọn lửa cháy đỏ từ hồi chiều tới giờ cũng gần tàn, tôi muốn kết thúc buổi gặp gỡ đầy kỉ niệm và nhiều ấn tượng buồn này và cũng muốn làm vơi bớt nỗi buồn của người bạn thân: “Thôi chúng ta không nên buồn vì chuyện Yadaw Kuma lừa gạt lấy tiền chùa. Nếu kiếp trước mình gạt nó bây giờ nó gạt lại là huề. Còn không nó sẽ trả quả báo rất sớm”. Thầy thốt lời rất nhanh: “Tôi đồng ý quan điểm đó!” Thế là tôi chia tay Thầy để về còn tụng kinh niệm Phật, sáng mai còn làm việc khác.

Mấy ngày sau, khi gặp lại Thầy, Thầy vẫn nhắc lại việc Yadaw Kuma gạt tiền chùa mà còn dám thề thốt một cách tỉnh bơ. Thầy nói nhưng vẻ mặt thật buồn và rất thất vọng cho nhân thế! Tôi biết thầy đang buồn nên vội khuyên: thầy nên quên chuyện đó đi để tâm hồn thoải mái mà lo những việc khác ý nghĩa hơn, thầy cứ yên tâm sự thật trước sau rồi cũng tỏ bày, Yadaw Kuma thế nào cũng trả quả báo thật sớm, vì đây là chỗ linh địa, tôi đã chứng kiến nhiều việc hiển linh! Thầy nghe tôi nói vậy, thế là thầy cười vui vẻ, hứa với tôi không nhắc đến việc của Yadaw Kuma nữa.

Khoảng một tuần sau trời mờ mờ chưa sáng, ngoài sân sương mù còn dày đặc, thế mà thầy đến gõ cửa phòng tôi mời qua uống trà. Tôi hơi ngạc nhiên vì tôi với thầy thường hay ngồi uống trà khi hoàng hôn gần xuống, sao hôm nay lại được mời uống trà trong buổi sáng tinh sương. Tôi nói để tôi lạy Phật xong sẽ qua, tôi sang đến nơi thì đã thấy thầy có mặt tự bao giờ.

Thầy vui vẻ mời tôi ngồi xuống và nói hôm nay tôi có trà rất ngon mới từ Miến Điện gửi sang nên mời thầy qua thưởng thức. Tôi uống được khoảng hai tách thì thầy hỏi tôi có biết tin tức gì mới không. Thầy hỏi với vẻ mặt nghiêm trang đặc biệt. Tôi hỏi lại thầy có chuyện gì lạ phải không. Thầy bảo những lời tôi nói hôm trước linh thiêng lắm. Tôi hỏi lại có chuyện gì mà linh thiêng? Thầy từ từ kể lại trong sự xúc động: tối qua anh Babulan, người làm công cho chùa Miến Điện đến báo tin vợ Yadaw Kuma không biết sao mà đau dữ dội, Yadaw Kuma phải gọi xe cứu thương chở vợ đi gấp để cấp cứu, khi vợ đến bệnh viện tạm ổn, Yadaw Kuma cho xe quay về nhà để lấy đồ ấm và một số đồ dùng cho vợ vì mùa đông ở xứ Ấn độ khá lạnh, khi về đến nhà thì tự nhiên 2 con bò và 1 con trâu trong đàn gia súc lăng ra chết cách đó chỉ vài chục phút. Yadaw Kuma hốt hoảng khóc lóc thảm thiết, làng xóm xung quanh chạy tới xem, trong đó có Babulan. Nhờ vậy mới có tin tức báo cho thầy biết, tuy rất đau đớn khổ sở nhưng Yadaw Kuma vẫn cố giữ bình tỉnh để lấy đồ cho vợ là chị Devi Kumari đang nằm trong phòng hấp hối. Nhưng hỡi ôi! Anh vừa đem đồ ấm tới nhà thương thì bác sĩ đã báo tin vợ anh đã chết trước khi anh đến chỉ có 5 phút. Theo nhiều người kể lại thì anh lăn ra đất tại bệnh viện mà khóc la thê thảm. Anh ôm xác vợ đưa về nhà mai táng vì theo truyền thống Ấn Độ không được để lâu. Anh cùng gia đình làng xóm đưa vợ anh đi thiêu thì không bao lâu sau đó 2 con trâu khác và 4 con cừu trong số 10 con cũng lần lượt chết đi, do căn bệnh gì tới nay không ai biết được. Nghe tin anh vừa đưa vợ đi vừa khóc lóc thảm thương như đứa con nít 8 tuổi, chứng kiến cảnh ấy ai ai cũng xót thương cho Yadaw Kuma. Khi xác chị vợ thiêu xong, tro được rải xuống dòng sông Phănggu gần Gaya. Khi anh vừa về nhà thì 6 con cừu còn lại của anh cũng vừa mới chết khoảng 1 giờ trước. Dân chúng trong vùng đều bị chấn động, cứ nghĩ bệnh dịch đang bùng phát nên nhiều gia đình xóm Yadaw Kuma đã vội dọn đồ chạy đi nơi khác sinh sống. Nhưng sự thật không phải bệnh dịch, mà sự cố chỉ xuất hiện trong gia đình của Yadaw Kuma. Sau đó 3 ngày, con của anh Yadaw Kuma lấy xe của bố chạy ra đường, không biết thế nào mà xe chở đá chạy ngược chiều cán con anh văng từng mảnh, nhưng chiếc xe yêu quý của Yadaw Kuma thì còn nguyên vẹn. Khi xe được đem về làng mọi người bàn tán đủ thứ, không ai giải thích được tại sao có chuyện lạ như vậy. Người thì tan xác, xe lại không bị gì! Nghe mọi người kể lại cái chết kinh hoàng của con anh, anh không tin nhưng khi cảnh sát đến tận nhà báo tin thì anh mới bật ngửa. Lại một trận khóc xảy ra, nhưng lần này nước mắt không còn để chảy vì tất cả đã khóc hết nước mắt cho người vợ thân yêu và đàn gia súc của anh.

Sau khi được cảnh sát báo tin anh cùng lên xe đi tới hiện trường thì anh mới tá hỏa như người mất hồn khi nhìn thấy đầu và tay của con, còn lại các phần khác thì văng tứ tung. Cái đầu máu mủ dính với bụi bặm nhìn rất thảm thương. Anh ôm đầu con vừa hôn vừa khóc thảm thiết. Còn anh tài xế chở đá khi gây tai nạn thấy cảnh khủng khiếp như vậy cũng hốt hoảng bỏ chạy, nhưng bị dân chúng bắt được giao cho cảnh sát. Yadaw Kuma ôm đầu con gào khóc như người điên loạn. Cảnh sát và mọi người khuyên anh nên bình tĩnh để còn đi lượm thịt xương của con anh, sợ để lâu sẽ bị hôi thúi quạ và kênh kênh tới giành ăn là sẽ gây khó khăn cho dân làng!

Gần một tiếng đồng hồ anh mới chịu nghe lời cảnh sát và mọi người khuyên. Sau đó anh cùng dân làng đi tìm những mảnh thịt con anh bị xe cán văng tứ phía, dân làng cũng tiếp tay với anh nhưng khi họ tì
loading...