Sách Phật giáo
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.14)
Thứ hai, 21/06/2016 09:21
Chấp nhận luật nghiệp quả đòi hỏi thay đổi cơ bản trong sự hiểu biết của chúng ta về mối quan hệ của ta với thế giới. Cặp đôi giáo thuyết về nghiệp và tái sinh cho chúng ta thấy thực sự thế giới mà ta đang sống, trong các khía cạnh quan trọng, là sự phản ánh của vũ trụ nội tại trong tâm.
Nhưng đa số chúng sinh khi tiếp cận với giáo pháp như thể những búp sen còn chìm sâu dưới mặt nước. Các đóa sen này được hưởng lợi qua ánh sáng mặt trời và dùng năng lượng đó để duy trì sự sống, nhưng vẫn cần thời gian để có thể vươn lên đến mặt nước. Cũng như thế, đa số phàm nhân khi nghe được Phật pháp và thiết lập niềm tin, vẫn phải nuôi dưỡng các phẩm hạnh tốt với năng lượng của Pháp, cho đến khi tâm thức họ được phát triển đầy đủ để thực chứng giác ngộ.
Tiến trình này thường phải qua nhiều kiếp sống. Như thế, những người đó cần phải có phương cách dài hạn để phát triển tâm linh. Khi thực hành con đường giải thoát, họ phải tránh việc tái sinh vào những cảnh khổ, tạo những kiếp sống nối tiếp với bảo đảm vật chất, an vui và có cơ hội cho tiến bộ tâm linh.
Tiến trình các chúng sinh đi từ trạng thái hiện hữu này sang hiện hữu khác cũng tuân theo nguyên tắc như thế. Tiến trình đó được quy định bởi một luật dựa theo hai nguyên tắc chính. Thứ nhất, luật đó liên kết các hành động của chúng ta với cõi giới ta sẽ tái sinh, tương ứng với các hành động đó. Thứ hai, luật đó xác định sự liên hệ giữa các hành động của ta với phẩm chất kinh nghiệm của chúng ta trong cõi giới ta sinh ra.
Như thế, nghiệp là những hành động do tác ý. Tác ý như thế có thể chỉ ở trong tâm, tạo ra ý nghiệp phát sinh như tư tưởng, hoạch định và mong muốn; hay nó có thể biểu hiện ra ngoài bằng những hành động về thân và lời nói.
Tuy nhiên, theo đức Phật, tất cả những hành động cố ý về mặt đạo đức sẽ mang đến kết quả (vipāka, phala) tương ứng với phẩm chất đạo đức của các hành động đó. Khả năng của các hành động để tạo ra những kết quả thích hợp về mặt đạo đức là những gì có ý nghĩa là nghiệp.
Từ đó, khi có đủ các điều kiện nội tại và ngoại vi thích hợp, nghiệp sẽ chín muồi và tạo ra quả tương xứng. Khi chín muồi, nghiệp sẽ quay trở lại với chúng ta, tốt hay xấu tùy thuộc vào phẩm chất đạo đức của hành động ban đầu.
Điều này có thể xảy ra sớm hay muộn, ngay trong kiếp sống này, hay trong kiếp sống kế tiếp, hay những kiếp sống khác trong tương lai xa xôi. Một điều chắc chắn là khi ta vẫn còn ở trong cõi ta-bà, những nghiệp tích tụ của ta có khả năng sẽ chín muồi nếu chúng chưa trổ quả.
Tiêu chuẩn đánh giá một hành động là bất thiện là các động lực cơ bản, là “gốc rễ”, từ đó phát sinh ra hành động. Có ba gốc rễ bất thiện: Tham, sân và si. Từ đó, nảy sinh nhiều phiền não thứ cấp – các trạng thái giận dữ, thù hận, ganh tị, ích kỷ, ngoan cố, kiêu ngạo, tự phụ và phóng dật. Từ gốc rễ bất thiện và phiền não thứ cấp sẽ phát sinh các hành động uế nhiễm.
Các hành động thiện hiệp thế (lokiya) có tiềm năng đưa đến sự tái sinh may mắn và các kết quả an vui trong vòng tái sinh. Các hành động thiện siêu thế (lokuttara) – là nghiệp tạo ra qua phát triển Bát Chi Thánh Đạo và các yếu tố hỗ trợ giác ngộ – sẽ đưa đến giác ngộ và giải thoát khỏi vòng tái sinh. Đây là nghiệp để gỡ bỏ toàn bộ tiến trình nhân quả nghiệp báo.
Nghiệp kết hợp này là để chỉ hành vi của một người lúc thiện, lúc ác, thay đổi liên tục. Cuối cùng, bài kinh nói về loại nghiệp không trắng không đen. Đây là nghiệp phát triển Bát Chi Thánh Đạo, loại nghiệp thiện siêu thế.
Trong Phật giáo Sơ kỳ, chánh kiến siêu thế này không thể có mặt riêng rẻ, cô lập khỏi chánh kiến hiệp thế. Trái lại, chánh kiến siêu thế bao hàm và phụ thuộc vào sự hỗ trợ vững chắc của chánh kiến hiệp thế, nghĩa là một niềm tin vững chắc vào luật nghiệp quả và tác động của luật này qua tiến trình tái sinh.
Đây không có nghĩa thế giới bên ngoài có thể thu nhỏ thành một suy diễn tâm thức theo cách thức của một số chủ thuyết triết học duy tâm. Tuy nhiên, nếu kết hợp lại, hai giáo thuyết này cho thấy những hoàn cảnh chúng ta sống phù hợp chặt chẽ với các xu hướng nghiệp hành của tâm ta. Lý do chúng sinh nào tái sinh vào một cảnh giới nào là vì trong kiếp trước, chúng sinh đó đã tạo nghiệp, hay những hành động có tác ý, dẫn đến tái sinh vào cảnh giới ấy.
Như đức Phật đã dạy: “Vì chúng sinh bị ngăn che bởi si mê và tham ái, nghiệp là đất trồng, thức là hạt giống và tham ái là hơi ẩm, để thức được thiết lập trong cảnh giới mới của hiện hữu – hoặc là thấp kém, hoặc trung bình, hoặc cao sang” (AN 3:76).
Có ba hành vi bất thiện về thân: Giết người, trộm cắp và tà hạnh; bốn hành vi bất thiện về khẩu: Nói dối, nói lời chia rẻ, nói lời thô lỗ và nói lời vô ích (hay đồn nhảm); và ba bất thiện về ý: Tham lam, sân hận và tà kiến. Mười điều thiện là đối nghịch lại: Không làm ba điều ác về thân, không làm bốn điều ác về khẩu, không tham lam, có lòng tử tế và có chánh kiến.
Theo bài kinh, mười ác nghiệp là lý do đưa chúng sinh tái sinh vào cảnh giới khổ sau khi chết; mười thiện nghiệp là lý do đưa chúng sinh tái sinh vào cảnh giới tốt lành sau khi chết. Bài kinh cũng cho thấy mười thiện nghiệp không những đưa đến cảnh giới an vui, mà còn đưa đến việc đoạn trừ lậu hoặc, chứng đạt giải thoát.
Đắc sơ thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Đại phạm thiên. Đắc nhị thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Quang minh thiên. Đắc tam thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên, Biến tịnh thiên. Đắc tứ thiền đưa đến tái sinh vào các cõi Quảng quả thiên, Vô tưởng thiên.
Sắc giới cũng bao gồm năm cõi hoàn toàn dành cho sự tái sinh của các vị Bất Lai, gọi là cõi Vô đọa thiên, Vô phiền thiên, Thiện hiện thiên, Thiện kiến thiên, Vô song thiên (aviha, atappa, sudassa, sudassı̄, akaniṭṭha). Trong mỗi cõi này, tuổi thọ có thời hạn rất lớn và tuổi thọ gia tăng đáng kể với mỗi cõi cao hơn.
Bài kinh giải thích câu nói này qua bảy đôi đối nghịch về phẩm hạnh của con người. Bài kinh cũng đưa ra sự khác biệt giữa hai loại hậu quả của ác nghiệp. Loại ác nghiệp mạnh sẽ đưa đến tái sinh vào các cõi dữ. Loại kia là tạo ra các quả xấu trong kiếp người, thí dụ như có tuổi thọ ngắn cho những người tạo nghiệp sát sinh trong kiếp trước.
Tương tự, kết quả của nghiệp thiện cũng có hai loại. Loại thiện nghiệp mạnh sẽ cho tái sinh vào các cõi trời và loại kia đưa đến quả lành trong kiếp người.
Do đó, như trong Kinh văn V,2(1), đức Phật kêu gọi các đệ tử vun trồng công đức, đề cập đến việc vun trồng công đức của Ngài trong nhiều kiếp trước, như là một thí dụ.
Đối với tín đồ Phật giáo, đó là ba châu báu (Tam Bảo): Phật, Pháp, Tăng. Kinh văn V,2(3) đề cao mỗi loại châu báu này là tối thượng trong một lĩnh vực riêng: Phật bảo là tối thượng trong loài người, Pháp bảo là tối thượng trong các lời dạy và Tăng bảo là tối thượng trong các cộng đồng tôn giáo.
Kinh văn đề xuất hai mặt khác biệt thú vị về Pháp bảo: Trong tất cả các pháp hữu vi (dhammā saṅkhatā), Bát Chi Thánh Đạo là tối thượng; trong tất cả các pháp hữu vi và vô vi (dhammā saṅkha- tā vā asaṅkhatā vā), Niết bàn là tối thượng. Chỉ có niềm tin nơi Tam Bảo, sự tín nhiệm tôn kính và sùng kính, là cơ bản của công đức.
Nhưng các câu kệ trong bài kinh cũng vạch ra rõ ràng rằng đức Phật và Tăng đoàn có thêm chức năng là những vị nhận các món quà tặng. Trong vai trò này, các vị ấy giúp cho thí chủ tạo công đức đưa đến trọn vẹn các mong ước đạo hạnh của họ. Khía cạnh này sẽ được trình bày thêm dưới đây.
Trái ngược với những gì độc giả phương Tây mong đợi, bố thí trong Phật giáo Sơ kỳ không có nghĩa đơn giản là từ thiện nhân đạo hướng về người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù bao gồm những điều đó, nhưng sự thực hành hạnh bố thí còn có một ý nghĩa đặc biệt bắt nguồn từ cấu trúc xã hội của tôn giáo Ấn Độ.
Tại Ấn Độ trong thời đức Phật, những người đi tìm những chân lý sâu xa nhất của sự hiện hữu và đạt được giải thoát khỏi vòng sinh tử thường là những người rời bỏ gia đình, từ bỏ vị thế an toàn trong trật tự xã hội Ấn Độ và sống một cuộc đời bấp bênh của kẻ lang thang vô gia cư.
Với đầu cạo tóc hoặc tóc quấn bện lại, đắp y vàng hoặc trắng hoặc khỏa thân, họ đi từ nơi này đến nơi khác, không có nơi cư trú cố định, ngoại trừ trong ba tháng mùa mưa, đi lang thang không nhà cửa. Họ được gọi là sa-môn (samaṇas, người tu khổ hạnh) hoặc du sĩ (paribbājakas), không làm các dịch vụ có thu nhập, nhưng sống nhờ vào lòng từ thiện của các gia chủ.
Các tín đồ cư sĩ cung cấp phương tiện vật chất – y áo, vật thực, nơi ở và thuốc men – với niềm tin rằng cúng dường như thế là nguồn công đức, để giúp các tín đồ ấy tiến vài bước xa hơn trên con đường hướng đến giải thoát tối hậu.
Các vị tu sĩ đáp lại bằng cách hiến tặng các thí chủ món quà quý giá của Giáo Pháp. Đó là lời giảng dạy về con đường cao thượng đưa đến hạnh phúc, an bình và giải thoát tối hậu. Kinh văn V,3(5) nêu rõ nguyên tắc tương trợ này. Khi chấp nhận các món quà của cư sĩ, những vị tu sĩ cho họ cơ hội tạo công đức.
Bởi vì mức độ công đức từ hành động bố thí được xem như tỷ lệ thuận với mức độ xứng đáng của người nhận, khi người nhận là đức Phật và những vị đi theo vết chân của Ngài, công đức trở nên vô lượng (xem thêm MN 142). Vì lẽ đó, Tăng đoàn Thanh văn (sāvakasaṅgha), là cộng đồng các vị thánh đệ tử, được gọi là “ruộng phước vô thượng trên đời” (anuttaraṃ puññakhetta lokassa).
Quà cúng dường đến Tăng đoàn sẽ đưa đến các phước lành to lớn, đưa đến lợi lạc và hạnh phúc lâu dài và có thể giúp tái sinh vào các cõi trời. Nhưng Kinh văn V,3(6) cũng nhắc nhở chúng ta rằng điều này chỉ đúng “cho những người có đạo đức trong sạch, không phải cho những người thiếu đạo đức”.
Các giới này được đề cập trong Kinh văn V,4(1), trong đó, có một xoay chuyển khá thú vị trong thuật ngữ, nói rằng các điều đó là “nguyên sơ, quà tặng truyền thống cổ xưa”, ngầm hiểu rằng trì giới (sīla) là nằm trong bố thí (dāna). Lý do việc tuân giữ các điều giới là một dạng bố thí vì người nào tuân giữ năm giới, người ấy “ban cho vô lượng chúng sinh sự tự do thoát khỏi sợ hãi, thù địch và áp bức”, và kết quả của nghiệp lành này là “người ấy sẽ hưởng được vô lượng tự do, thoát khỏi sợ hãi, thù địch và áp bức”.
Trong những ngày này, những cư sĩ Phật giáo tín thành tuân giữ tám giới. Đó là năm giới thông thường, nhưng với giới thứ ba chuyển thành tuyệt đối không hành dâm, cộng thêm ba giới khác tương tự như các học giới của sa-di và sa-di-ni. Tám giới này, liệt kê trong Kinh văn V,4(2), tăng cường việc huân tập giới đức như là một sự tu tập đạo đức trong việc tự kiềm chế, sống đơn giản và biết đủ. Trên phương diện này, các điều giới ấy giúp cho vị đệ tử chuẩn bị để huân tập tâm trong công phu hành thiền, nền tảng thứ ba của công đức.
Tuy nhiên, thiền tâm Từ chỉ là một trong bốn pháp thiền gọi là bốn “phạm trú” (brahmavih̄āra) hay bốn “tâm vô lượng” (appamaññā). Phát triển từ, bi, hỷ, xả, phải được trải rộng, không giới hạn, đến tất cả chúng sinh.
Vắn tắt, tâm Từ (mettā) là ước nguyện chúng sinh được an vui, hạnh phúc; tâm bi (karuṇ̣ā) là sự thông cảm đến chúng sinh đang đau khổ; tâm hỷ (muditā) là cùng vui với hạnh phúc và thành công của người khác; và tâm xả (upekkhā) là phản ứng quân bình về hạnh phúc và đau khổ, giúp bảo vệ tâm, không bị ảnh hưởng bởi các cảm xúc khích động.
Kinh văn V,5(3), phần cuối của chương này, xếp hạng các loại công đức khác nhau theo kết quả: Từ bố thí (với những loại tặng phẩm dựa theo cấp độ tâm linh của người nhận) xuyên qua việc quy y và tuân giữ năm giới, đến pháp thiền tâm Từ. Sau đó, đến đoạn cuối, bài kinh tuyên bố rằng kết quả tốt nhất là sự nhận thức về vô thường.
Tuy nhiên, nhận thức về vô thường thuộc về một cấp độ khác. Nhận thức ấy có kết quả tốt nhất không phải là vì đem đến các điều an vui trong vòng tái sinh, nhưng là vì điều đó đưa đến tuệ quán để cắt đứt các chuỗi nô lệ ràng buộc và đem đến thực chứng giải phóng toàn bích, đó là Niết bàn.
Tỳ kheo Bodhi biên soạn và giới thiệu
Bình Anson dịch
Trích trong Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli
Còn nữa…
TIN, BÀI LIÊN QUAN:
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.13)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.12)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.11)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.10)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.9)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P8)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P7)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P6)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P5)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P4)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P3)
-
Những lời Phật dạy - trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.2)
-
Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P.1)