Sách Phật giáo

Những lời Phật dạy - Trích lục các bài giảng trong Kinh điển Pāli (P8)

Thứ hai, 12/05/2016 11:53

Vị thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Bi,... tâm câu hữu với Hỷ,... tâm câu hữu với Xả biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.

CHƯƠNG III
TIẾP CẬN GIÁO PHÁP

DẪN NHẬP

Một trong những khó khăn bất cứ một người tầm đạo nào tha thiết và cởi mở cũng phải đối diện là sự chọn lựa những lời dạy sẵn có về tôn giáo và tâm linh, vốn rất phong phú và đa dạng. Bản chất của những lời giảng dạy giáo lý là thường đòi hỏi phải có lòng trung thành tuyệt đối và trọn vẹn. Những tín đồ của một tín ngưỡng nào đó thường có khuynh hướng cho rằng chỉ có tôn giáo của mình là tiết lộ được chân lý cuối cùng về vị trí của chúng ta trong vũ trụ và số phận tối hậu của chúng ta. Họ mạnh dạn đề xuất rằng chỉ có con đường của họ là cung cấp các phương tiện để đảm bảo sự cứu rỗi đời đời. Nếu chúng ta có thể đình chỉ tất cả các cam kết về niềm tin và so sánh các giáo thuyết cạnh tranh một cách công bằng, đem chúng ra thực nghiệm, có lẽ chúng ta sẽ có một phương pháp chắc chắn để quyết định chọn lựa. Nhờ đó, sự thử thách của chúng ta sẽ kết thúc. Nhưng không đơn giản như vậy. Các tôn giáo đối nghịch đều đề xuất – hay giả định – những lý thuyết mà chúng ta không thể xác định trực tiếp bằng kinh nghiệm cá nhân. Các tôn giáo này thường đưa ra những giáo lý đòi hỏi phải có một mức độ tin tưởng. Khi có xung đột giữa giáo lý và thực hành, chúng ta gặp phải vấn đề là tìm cách nào đó để quyết định chọn lựa và kết hợp những tuyên bố cạnh tranh về chân lý.

Một giải pháp cho vấn đề này là phủ nhận có bất kỳ xung đột thực sự giữa các hệ thống tín điều. Những người đi theo giải pháp này, có thể gọi là chủ nghĩa phổ quát tôn giáo, nói rằng cốt lõi của tất cả truyền thống tâm linh trên cơ bản là giống nhau. Công thức có thể khác nhau, nhưng cốt lõi bên trong là như nhau, thể hiện khác nhau chỉ đơn thuần là để phù hợp với những sự nhạy cảm khác nhau. Điều chúng ta cần làm, theo chủ nghĩa phổ quát tôn giáo, khi phải đối diện với các truyền thống tâm linh khác nhau, là moi ra hạt nhân của sự thật bên trong, từ vỏ bọc của các tín điều hiển giáo. Trên mặt đất, mục tiêu của chúng ta có thể nhìn khác nhau, nhưng từ trên cao, chúng ta sẽ thấy mục tiêu là như nhau; cũng giống như quan sát mặt trăng từ những đỉnh núi khác nhau. Những người theo chủ nghĩa phổ quát tôn giáo trong các vấn đề của giáo thuyết thường ủng hộ chủ nghĩa chiết trung khi thực hành. Họ chủ trương là chúng ta có thể chọn bất cứ điều gì chúng ta muốn thực hành và kết hợp chúng như các món ăn tại một bữa tiệc buffet.

Giải pháp này đối với tính đa dạng của tôn giáo có một sức hấp dẫn ngay lập tức cho những người thất vọng với tuyên bố độc quyền của các tôn giáo giáo điều. Tuy nhiên, với nhận định phê bình chân thật, chúng ta sẽ thấy trong những vấn đề quan trọng nhất, các tôn giáo và truyền thống tâm linh có quan điểm khác nhau. Các tôn giáo này cho chúng ta câu trả lời rất khác nhau, cho câu hỏi của chúng ta liên quan đến các cơ bản và mục tiêu của sự tầm cầu tâm linh. Thông thường, những khác biệt này không chỉ bằng lời nói. Bỏ qua các khác biệt đó, cho rằng chỉ khác biệt qua lời nói bên ngoài, có thể là một cách hiệu quả để đạt được sự hài hòa giữa những người theo những hệ thống tín ngưỡng khác nhau. Nhưng cách đó không thể chấp nhận khi được kiểm tra chặt chẽ. Cuối cùng, không thể nói rằng, bởi vì chúng có mỏ và cánh, đại bàng, chim sẻ và gà về cơ bản là cùng một loại sinh vật, sự khác biệt giữa chúng chỉ đơn thuần qua cách nói bên ngoài.

Đây không chỉ là các tôn giáo hữu thần dạy giáo lý vượt ra ngoài phạm vi của thực nghiệm để xác nhận ngay lập tức. Đức Phật cũng dạy những giáo thuyết mà người bình thường có thể không trực tiếp xác định được bằng kinh nghiệm hàng ngày và những giáo thuyết này là nền tảng cho cấu trúc của sự giảng dạy của Ngài. Chúng ta đã thấy, lấy ví dụ, trong các đoạn dẫn nhập của chương I và II, rằng các bộ kinh Nikāya trình bày về một vũ trụ với nhiều cõi chúng sinh, trải ra trong không gian vô biên và thời gian vô hạn. Một vũ trụ mà trong đó, chúng sinh đi lang thang từ đời này sang đời khác, do vô minh, tham ái và nghiệp hành của mình. Các bộ kinh Nikāya trình bày rằng trong suốt thời gian vô thủy, vô số vị Phật xuất hiện và chuyển bánh xe Pháp. Mỗi vị Phật đạt giác ngộ sau khi vun trồng hoàn hảo các pháp ba-la-mật qua nhiều thời gian lâu dài trong vũ trụ. Khi tiếp cận Pháp, chúng ta có khuynh hướng chống lại niềm tin như vậy và cảm thấy rằng bài kinh đó đòi hỏi quá đáng trong khả năng của chúng ta về niềm tin. Vì vậy, có lẽ chúng ta sẽ tự đặt câu hỏi, nếu chúng ta muốn làm theo lời Phật dạy, chúng ta có cần phải chấp nhận toàn bộ giáo lý Phật giáo cổ điển hay không.

Đối với Phật giáo Sơ kỳ, tất cả các vấn đề chúng ta phải đối mặt trong việc quyết định nên đặt niềm tin đến mức độ nào có thể được xử lý ngay lập tức. Đó là việc quay trở lại kinh nghiệm trực tiếp làm cơ sở tối hậu để phán quyết. Một trong những đặc điểm nổi bật của giáo lý của Đức Phật là tôn trọng kinh nghiệm trực tiếp. Các kinh văn của Phật giáo Sơ kỳ không dạy một giáo thuyết bí mật, cũng không để dành điều gì giống như một con đường huyền bí dành cho một tầng lớp tín đồ tinh hoa, không truyền bá cho những người khác. Theo Kinh văn III,1, bí mật trong giáo lý là dấu hiệu của quan điểm sai lầm (tà kiến) và suy nghĩ lầm lộn. Giáo lý của Đức Phật tỏa sáng một cách công khai, rạng rỡ và rực rỡ như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Không bị bao trùm bởi bí mật là một đặc tính không thể thiếu của một giáo lý dành ưu tiên cho kinh nghiệm trực tiếp, mời gọi mỗi cá nhân đến kiểm tra các nguyên tắc của giáo lý đó, qua thử thách kinh nghiệm riêng của mình.

Điều này không có nghĩa là một người bình thường hoàn toàn có thể xác nhận giáo thuyết của Đức Phật, bằng kinh nghiệm trực tiếp mà không cần nỗ lực đặc biệt. Ngược lại, lời dạy của Ngài chỉ có thể được thực hiện đầy đủ thông qua việc đạt được một kinh nghiệm phi thường, vượt xa phạm vi của những người bình thường, vốn đang vướng bận vào các mối quan tâm của cuộc sống trần tục.

Tuy nhiên, trái ngược với tôn giáo khải thị, Đức Phật không đòi hỏi chúng ta phải bắt đầu việc tầm đạo bằng cách đặt niềm tin vào các giáo thuyết nằm ngoài phạm vi của kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta. Thay vì đòi hỏi chúng ta phải đương đầu với các vấn đề, trong điều kiện hiện tại của chúng ta, không có số lượng kinh nghiệm để có thể quyết định, Ngài dạy chúng ta nên quan tâm đến những câu hỏi đơn giản, có liên quan đến phúc lợi và hạnh phúc trước mắt, những câu hỏi mà chúng ta có thể trả lời trên cơ sở kinh nghiệm cá nhân. Tôi (tác giả) nhấn mạnh câu “trong điều kiện hiện tại của chúng ta”, bởi vì thực tế là có những vấn đề chúng ta không thể xác định đươc. Nhưng đó không phải là căn cứ để chối bỏ như là không hợp lý, hoặc thậm chí không thích hợp. Nó chỉ có nghĩa rằng chúng ta nên đặt chúng sang một bên trong thời gian này và chỉ quan tâm đến vấn đề nằm trong phạm vi kinh nghiệm trực tiếp.

Đức Phật dạy giáo lý của Ngài là về đau khổ và sự chấm dứt đau khổ. Tuyên bố này không có nghĩa là Pháp là chỉ quan tâm đến kinh nghiệm của chúng ta về đau khổ trong cuộc sống hiện tại. Nhưng nó có nghĩa là chúng ta có thể sử dụng kinh nghiệm hiện tại, được hỗ trợ bởi quán sát thông minh, như một tiêu chuẩn để xác định những gì là có lợi và những gì có hại cho tiến trình tâm linh của chúng ta. Nhu cầu tồn tại dai dẳng nhất của chúng ta, sâu thẳm trong chúng ta, là nhu cầu không bị tổn hại, buồn rầu và đau khổ; hoặc, nói một cách tích cực, nhu cầu để đạt được an lạc và hạnh phúc.

Tuy nhiên, để tránh gây tổn hại và đảm bảo hạnh phúc, không phải chúng ta chỉ hy vọng đơn thuần. Đầu tiên, chúng ta phải hiểu các điều kiện mà chúng phụ thuộc. Theo Đức Phật, bất cứ điều gì phát sinh, phát sinh từ các nguyên nhân và điều kiện thích hợp. Điều này xảy ra đồng đều cho cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta phải xác định nguyên nhân và điều kiện dẫn đến gây tổn hại và đau khổ và tương tự như vậy, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến an lạc và hạnh phúc. Một khi chúng ta đã thấy rõ hai nguyên tắc này – các điều kiện dẫn đến gây tổn hại và đau khổ và các điều kiện dẫn đến an lạc và hạnh phúc – chúng ta có một phác thảo của toàn bộ quá trình dẫn đến mục tiêu tối hậu, giải thoát rốt ráo khỏi đau khổ.

Bài kinh cho một ví dụ tuyệt vời của phương pháp này là một bài giảng ngắn trong Tăng chi bộ, thường được gọi là kinh Kālāma, Kinh văn III,2. Những người trong bộ tộc Kālāma sống trong một khu vực xa xôi của vùng đồng bằng sông Hằng. Các đạo sư của nhiều tôn giáo khác nhau đến thăm viếng, mỗi vị ca ngợi giáo thuyết riêng của mình và bác bỏ giáo thuyết của các đối thủ khác. Bối rối và lúng túng bởi xung đột trong các hệ thống tín điều, những người dân Kālāma không biết chọn ai để tin tưởng. Khi Đức Phật đi qua thị trấn của họ, họ tiến lại gần và hỏi Ngài để giúp xóa tan nghi ngờ của họ. Mặc dù kinh văn không xác định những vấn đề đặc biệt nào đã tạo ưu tư cho người Kālāma, phần sau của bài kinh chỉ rõ ràng rằng họ lúng túng xoay quanh những câu hỏi về tái sinh và nghiệp.

Đức Phật bắt đầu bằng cách đảm bảo người Kālāma rằng trong tình huống như vậy, họ nghi ngờ như thế là đúng, những vấn đề mà họ gặp rắc rối thực sự là nguồn gốc thông thường của nghi ngờ và bối rối. Sau đó, Ngài nói với họ không nên dựa vào mười nguồn gốc của niềm tin. Trong số đó, có bốn điều liên quan đến thành lập thẩm quyền về kinh điển (khẩu truyền, dòng dõi giảng dạy, tin đồn và sưu tập các kinh văn); bốn điều liên quan đến căn cứ hợp lý (logic, suy luận, lý luận khái niệm và việc chấp nhận một quan kiến sau khi cân nhắc); và hai điều liên quan đến người có thẩm quyền (thuyết giả có ấn tượng và giảng sư đáng kính). Lời khuyên này đôi khi được trích dẫn để chứng minh rằng Đức Phật bác bỏ tất cả các cơ quan thẩm quyền và mời gọi mỗi cá nhân tùy ý định đoạt con đường riêng để tìm chân lý.

Tuy nhiên, đọc trong bối cảnh của bài kinh, thông điệp của kinh Kālāma khác hẳn. Đức Phật không khuyên những người Kālāma – cần phải nhấn mạnh ở đây là những người này, ngay lúc đó, chưa phải là đệ tử của Ngài – bác bỏ tất cả các hướng dẫn có thẩm quyền để có hiểu biết tâm linh và trở lại hoàn toàn dựa vào trực giác cá nhân của họ. Thay vào đó, Ngài chỉ cho họ một phương cách đơn giản và thực dụng, để thoát ra khỏi bãi lầy của sự nghi ngờ và lúng túng, mà họ đang đắm chìm trong đó. Bằng cách sử dụng các phương pháp khéo léo của thẩm tra, Ngài hướng dẫn họ thông hiểu một số nguyên tắc cơ bản mà họ có thể xác minh bằng kinh nghiệm của mình. Từ đó, có được một điểm khởi đầu chắc chắn để phát triển tâm linh.

Tiềm ẩn dưới các câu hỏi của Đức Phật và trả lời của những người Kālāma là tiền đề ngầm hiểu rằng con người chủ yếu được thúc đẩy để hành động là từ mối quan tâm được an lạc và hạnh phúc cho mình. Khi đặt ra các câu hỏi này, mục đích của Đức Phật là để hướng dẫn người Kālāma thấy rằng, ngay cả khi chúng ta tạm thời đình chỉ tất cả mối quan tâm với các đời sống trong kiếp sau, những trạng thái tâm bất thiện như tham, sân, si và hành động bất thiện như sát hại và trộm cắp, cuối cùng đưa đến tác hại và đau khổ cho mình, ngay tại đây và ngay bây giờ.

Ngược lại, trạng thái tâm hồn lành mạnh và hành động thiện lành sẽ đưa đến an lạc và hạnh phúc lâu dài, ngay tại đây và ngay bây giờ. Một khi điều này được nhận thấy rõ ràng, hậu quả tác hại do những tâm ý bất thiện có thể nhìn thấy ngay lập tức và trở thành một lý do đầy đủ để buông bỏ chúng. Những lợi ích có thể nhìn thấy do những tâm ý thiện lành trở thành một động lực đủ để nuôi dưỡng chúng. Sau đó, dù có hoặc không có một đời sống sau khi chết, chúng ta vẫn có lý do chính đáng trong cuộc sống hiện tại để từ bỏ những trạng thái tâm bất thiện và trau dồi trạng thái tinh thần lành mạnh. Nếu có kiếp sau, phần thưởng đương nhiên sẽ to lớn hơn nhiều.

Một cách tiếp cận tương tự được trình bày trong Kinh văn III,3, trong đó, Đức Phật trình bày như thế nào đau khổ phát sinh và chấm dứt trong hiện tại, trong mối tương quan với ái dục hiện tại. Bài kinh ngắn này, dạy một cư sĩ, chính xác nói lên nguyên tắc nhân quả nằm phía sau Tứ Thánh Đế. Thay vì trình bày một cách trừu tượng, bài kinh dùng cách tiếp cận cụ thể, đơn giản gần gũi nhưng có sức hấp dẫn hiện đại đáng kể. Bằng cách sử dụng các ví dụ mạnh mẽ rút ra từ cuộc sống của một cư sĩ gắn bó với vợ và con, bài kinh tạo một ấn tượng sâu sắc và lâu dài cho chúng ta.

Điều mà các kinh văn như bài kinh này và bài kinh Kālāma không đề cập đến giáo thuyết về nghiệp và tái sinh không có nghĩa, như đôi khi người ta suy diễn, rằng các lời dạy này chỉ là các phần văn hóa tăng bồi của Giáo Pháp, có thể xóa hoặc bỏ qua mà không mất phần cốt yếu. Điều này có nghĩa là, ngay từ đầu, Giáo Pháp có thể được tiếp cận theo nhiều cách, mà không cần quy chiếu đến đời sống quá khứ và tương lai. Lời dạy của Đức Phật có nhiều mặt và vì thế, từ góc độ nào đó, Giáo Pháp có thể được đánh giá trực tiếp đối với mối quan tâm của chúng ta về sự an lạc và hạnh phúc trong hiện tại. Một khi chúng ta thấy rằng việc thực hành các lời dạy của Ngài thực sự mang lại hòa bình, niềm vui và an toàn nội tâm ngay trong đời này, điều này sẽ tạo hứng khởi cho sự tin tưởng và tín nhiệm của chúng ta vào toàn thể Giáo Pháp, bao gồm cả những khía cạnh nằm ngoài khả năng hiện tại của chúng ta để tự xác minh. Nếu chúng ta phải tu tập thêm nữa – những pháp môn tu tập đòi hỏi phải có kỹ năng tinh nhạy và nỗ lực quyết tâm – chúng ta có thể sẽ có được những khả năng cần thiết để xác nhận các khía cạnh khác của Giáo Pháp, chẳng hạn như luật nhân quả, thực tế của tái sinh và sự hiện hữu của các cõi giới khác (xem Kinh văn VII,4 và Kinh văn VII,5).

Một vấn đề lớn mà người tầm đạo thường hay băn khoăn là các đạo sư đòi hỏi môn đệ phải có lòng tin vào vị đạo sư. Vấn đề này trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời đại chúng ta, khi các phương tiện truyền thông sẵn sàng loan tải những khuyết điểm của rất nhiều đạo sư. Họ không bỏ lỡ cơ hội để cho thấy bất kỳ một thánh nhân nào trong thời đại này không có gì tốt hơn so với một kẻ lừa đảo trong bộ áo choàng. Nhưng vấn đề về các đạo sư giả mạo là một trong những vấn đề đã có từ ngàn xưa, không phải chỉ mới bây giờ. Bất cứ khi nào một người thực thi quyền bính thiêng liêng lên những người khác, người ấy rất dễ dàng bị cám dỗ để lợi dụng lòng tin qua nhiều phương cách, gây tai hại nghiêm trọng cho chính họ và các môn đệ. Khi một môn đệ tiếp cận một vị đạo sư tuyên bố là hoàn toàn giác ngộ và do đó, có khả năng giảng dạy con đường giải thoát tối hậu, người môn đệ đó cần phải có một số tiêu chí trong tay để thử nghiệm vị đạo sư đó, để xác định vị đạo sư có thực sự đúng như những gì vị ấy tuyên bố về chính mình – hay những gì người khác ca ngợi về vị ấy.

Trong bài kinh Vı̄maṃsaka (kinh Tư sát), Kinh văn III,4, Đức Phật đưa ra các hướng dẫn mà một tu sĩ có thể kiểm tra vị “Tathāgata” (Như Lai), nghĩa là Đức Phật, để đánh giá tuyên bố của Ngài là đã hoàn toàn giác ngộ. Một điểm chuẩn của sự giác ngộ hoàn hảo là sự tự do của tâm trí khỏi mọi phiền não. Nếu một tu sĩ có thể không trực tiếp nhìn vào tâm trí của Đức Phật, vị ấy vẫn có thể dựa vào bằng chứng gián tiếp để xác định rằng Đức Phật được giải thoát khỏi phiền não. Điều này có nghĩa là, bằng cách đánh giá những hành động và lời nói của Đức Phật, vị ấy có thể suy ra rằng các trạng thái tâm ý của Đức Phật là hoàn toàn thanh tịnh, không bị ảnh hưởng bởi tham, sân, si. Ngoài việc quan sát suy luận như vậy, Đức Phật khuyến khích vị tu sĩ tiếp cận Ngài và trực tiếp tìm hiểu về các trạng thái tâm ý của Ngài.

Khi người môn đệ có sự tin tưởng vào Đức Phật là một đạo sư có trình độ, người ấy tiếp tục thực hiện một cuộc thử nghiệm tối hậu. Người ấy học và thực hành lời giảng dạy của vị đạo sư và thâm nhập Pháp qua trực tiếp hiểu biết. Hành động thâm nhập này – tương đương với điều kiện tối thiểu của quả Dự lưu – mang đến “lòng tin bất thối chuyển”, lòng tin của một người đã đi vào dòng thánh, tiến đến giải thoát rốt ráo, không còn quay lui lại nữa.

Nếu đọc riêng rẽ, kinh Tư sát có thể tạo ra ấn tượng rằng ta chỉ có đức tin sau khi thực chứng lời dạy và bởi vì sự thực chứng tự nó đã có giá trị, vì thế đức tin trở thành không cần thiết. Ấn tượng này, tuy nhiên, chỉ là một chiều. Điểm quan trọng trong bài kinh là niềm tin đó trở nên vững chắc, bất lay chuyển, như là kết quả của thực chứng, không phải niềm tin đi vào con đường tâm linh chỉ có khi hành giả thực chứng. Niềm tin, hay “tín”, là một trong năm khả năng (ngũ căn – tín, tấn, niệm, định, tuệ) và trong mức độ nào đó, tin tưởng vào sự giác ngộ của Đức Phật và các nguyên tắc chính trong lời giảng dạy của Ngài. Đó là một điều kiện tiên quyết cho việc tu tập cao hơn. Chúng ta sẽ thấy niềm tin có tác dụng như thế nào trong vai trò chuẩn bị này trong Kinh văn III,5, trích một đoạn dài từ bài kinh Caṅkı̄.

Ở đây, Đức Phật giải thích rằng một người có niềm tin vào một cái gì đó sẽ “hộ trì chân lý” (saccānurakkhanā) khi người ấy nói rằng “đây là niềm tin của tôi”. Người ấy “hộ trì chân lý” vì người ấy chỉ đơn thuần khẳng định những gì người ấy tin, mà không nhảy đến kết luận rằng những gì người ấy tin chắc chắn là đúng sự thật và bất cứ điều gì trái với nó là sai. Đức Phật tương phản “hộ trì chân lý” với “giác ngộ chân lý” (saccānubodha), bắt đầu bằng cách đặt niềm tin vào vị đạo sư đã chứng tỏ mình xứng đáng với sự tin tưởng. Có niềm tin đạt được trong một đạo sư như vậy, sau đó đến tiếp cận vị thầy để được hướng dẫn, học Pháp, thực hành Pháp (theo một loạt các bước được mô tả tinh tế hơn so với kinh văn trước đó) và cuối cùng nhìn thấy chân lý tối cao cho chính mình.

Điều này chưa đánh dấu sự kết thúc con đường cho người đệ tử. Đó chỉ là bước đột phá ban đầu về chân lý, một lần nữa tương ứng với việc đắc quả Dự lưu. Sau khi đã nhìn thấy chân lý, để đạt được “điểm đến cuối cùng của chân lý” (saccānu- patti) – có nghĩa là đắc quả A-la-hán hoàn toàn giải thoát, hành giả phải tiếp tục tu tập, phát triển và nuôi dưỡng cùng một loạt các bước tu tập, cho đến khi hành giả hoàn toàn hấp thu và thấm nhập chân lý tột cùng, vốn đã được nhận ra từ lúc ban đầu. Như vậy toàn bộ quá trình tu tập Pháp bắt rễ từ kinh nghiệm cá nhân. Ngay cả đức tin cũng phải bắt rễ từ việc khảo hạch và thẩm tra, không chỉ dựa trên các khuynh hướng cảm tính và niềm tin mù quáng. Đức tin không thôi cũng chưa đủ, nhưng là cánh cửa đưa đến các mức độ sâu sắc hơn của chứng nghiệm. Đức tin được dùng để thúc đẩy, khuyến khích thực hành; thực hành dẫn đến sự hiểu biết qua kinh nghiệm. Khi sự hiểu biết của hành giả được chín muồi, nó sẽ nở ra trong thực chứng toàn vẹn.
 
TRÍCH LỤC
I. TIẾP CẬN GIÁO PHÁP

1. KHÔNG PHẢI LÀ GIÁO PHÁP MẬT TRUYỀN

“Này các Tỳ-kheo, có ba pháp được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ. Thế nào là ba? Sở hành của nữ nhân, chú thuật của bà-la-môn và tà kiến.

“Này các Tỳ-kheo, ba pháp chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Thế nào là ba? Vành tròn của mặt trăng vành tròn của mặt trời, Pháp và Luật được Như Lai tuyên thuyết”. (AN 3:131)

2. KHÔNG GIÁO ĐIỀU HAY LÒNG TIN MÙ QUÁNG

Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỳ-kheo, đi đến Kesaputta, thị trấn của các người Kālāma.

Các người Kālāma ở Kesaputta được nghe: “Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích ca đã đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp như sau được truyền đi về sa-môn Gotama: Ngài là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sau khi tự thực chứng, Ngài đã giảng dạy chư thiên và loài người, hàng tu sĩ và cư sĩ, vua chúa cùng thường dân. Ngài đã giảng Pháp cao diệu từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối. Ngài đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiết và rõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết. Lành thay, nếu chúng tôi được yết kiến một vị Ứng Cúng như vậy”.

Rồi các người Kālāma ở Kesaputta đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống một bên; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng rồi ngồi xuống một bên.

Sau khi ngồi xuống một bên, các người Kālāma ở Kesaputta bạch Thế Tôn:

– Có một số sa-môn, bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesa- putta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Bạch Thế Tôn, lại có một số sa-môn, bà-la-môn khác cũng đi đến Kesaputta, họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: “Trong những tôn giả sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo?”

– Ðương nhiên, này các Kālāma, các ông có những nghi ngờ. Ðương nhiên, này các Kālāma, các ông có những phân vân. Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các ông đương nhiên khởi lên phân vân.

Này các Kālāma, đừng tin theo vì truyền khẩu, vì từ sự truyền thừa của các vị đạo sư, vì lời đồn đại, vì đó là bộ sưu tập thánh điển, vì nghe thuận lý, vì do suy luận, vì do lý luận dựa vào khái niệm, vì chấp nhận một quan kiến sau khi cân nhắc, vì người nói ấy có vẻ có thẩm quyền, hay vì nghĩ rằng: “Vị ẩn sĩ ấy là đạo sư của ta”.

Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau”, thì này Kālāma, hãy từ bỏ chúng.

Các ông nghĩ thế nào, này Kālāma? Khi tham, sân, si khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?

– Bất hạnh, bạch Thế Tôn.
– Này các Kālāma, khi tham, sân, si khởi lên trong nội tâm người nào, tâm người ấy bị tham, sân, si chinh phục, tâm bị xâm chiếm, người ấy sẽ giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Các ông nghĩ thế nào, này các Kālāma, các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Là bất thiện, bạch Thế Tôn.
– Đáng chê hay không đáng chê?
– Đáng chê, bạch Thế Tôn.
– Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?
– Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.
– Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không? Hay ở đây, là như thế nào?
– Ðược thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là vậy.
– Như vậy, này các Kālāma, điều Ta vừa nói với các ông: Đừng tin theo vì truyền khẩu,... vì nghĩ rằng: “Vị ẩn sĩ ấy là đạo sư của ta”. Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị các người có trí quở trách; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau”, thì này Kālāma, hãy từ bỏ chúng.

Này các Kālāma, đừng tin theo vì truyền khẩu,... vì nghĩ rằng: “Vị ẩn sĩ ấy là đạo sư của ta”. Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết như sau: “Các pháp này là thiện; các pháp này là không đáng chê; các pháp này không bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc”, thì này Kālāma, hãy tự đạt đến và an trú.

Các ông nghĩ thế nào, này các Kālāma? Khi không tham, không sân, không si khi khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy, là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

– Hạnh phúc, bạch Thế Tôn.
– Này các Kālāma, khi không tham, không sân, không si khởi lên trong nội tâm người nào, tâm người không bị tham, sân, si chinh phục, tâm không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Các ông nghĩ thế nào, này các Kālāma, các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Là thiện, bạch Thế Tôn.
– Các pháp này là đáng chê hay không đáng chê?
– Không đáng chê, bạch Thế Tôn.
– Bị người có trí quở trách hay được người có trí tán thán?
– Ðược người trí tán thán, bạch Thế Tôn.
– Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an lạc không, hay ở đây, là như thế nào?
– Ðược thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối với chúng con là vậy.
– Này các Kālāma, đừng tin theo vì truyền khẩu,... vì nghĩ rằng: “Vị ẩn sĩ ấy là đạo sư của ta”. Nhưng này các Kālāma, khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là thiện; các pháp này là không có tội; các pháp này được người có trí tán thán; các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc”, thì này Kālāma, hãy chứng đạt và an trú.
– Này các Kālāma, vị thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Từ biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.

Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Từ, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

Vị thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác, chánh niệm, với tâm câu hữu với Bi,... tâm câu hữu với Hỷ,... tâm câu hữu với Xả biến mãn một phương; cũng vậy phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư.

Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Xả, quảng đại, đại hành, vô biên, không hận, không sân.

Vị thánh đệ tử, này các Kālāma, với tâm không oán như vậy, không sân như vậy, không uế nhiễm như vậy, thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt được bốn sự an ổn:

i) “Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sinh lên cõi thiện, cõi trời, cõi đời này”, đây là an ổn thứ nhất vị ấy có được.

ii) “Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, thì ở đây, trong hiện tại, ta tự sống với tâm không o&
loading...