Sách Phật giáo

Nikaya với Khoa học và Thế giới siêu hình (Phần cuối)

Thứ hai, 14/05/2016 01:37

Chính vì không thấy khổ đau trên mọi kiếp vô thường nên mới không muốn từ bỏ sinh y, tài sản, danh vọng, quyền lực, địa vị, tranh chấp. Chính vì không thường xuyên quán xét khổ trên vô thường theo nhiều cách khác nhau nên mới còn dễ duôi, phóng dật, buông thả theo những tham muốn thế tục.

Bốn Thế Giới Siêu Hình Trong Kinh Tạng Nikāya
II. Quán khổ trên vô thường. Quán vô ngã trên khổ

Trước hết cần phải y cứ vào chánh Kinh để nêu những dẫn chứng cụ thể cho lời dạy của đức Thế Tôn về cách quán này.

- “Này các Tỳ-kheo, để thắng tri tham, chín pháp cần phải tu tập. Thế nào là chín?

Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng yểm ly đối với các món ăn, tưởng không vui thích đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham.

Này các Tỳ-kheo, để thắng tri tham, chín pháp này cần phải tu tập” (TC4, C9, Phẩm Tham, bài kinh Thắng Tri Tham, số 93 = [I.9.93]).

- “Này các Tỳ-kheo, mười tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Thế nào là mười?

Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nhàm chán trong các món ăn, tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tưởng vô thường, tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham, tưởng đoạn diệt.

Này các Tỳ-kheo, mười tưởng này, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh” (bài kinh Tưởng, TC4, C9, Phẩm Tâm Của Mình, số 56, trang 379 = [I.10.56])

Nếu quan sát kỹ các lời dạy tương tự khác trong kinh Nikāya, người học Phật có thể thấy cách ‘quán tưởng khổ trên vô thường’ và ‘quán tưởng vô ngã trên khổ’ cùng với các cách quán tưởng bất tịnh, tưởng nhàm chán món ăn, tưởng yếm ly thế giới... thường được đức Phật dạy cho hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đã xuất gia. Trong khi đó, cách ‘quán khổ trong vô thường’ và ‘vô ngã trong khổ’ thường được đức Thế Tôn dạy cho các cư sĩ tại gia như trong bài kinh Dīghāvu đã nêu là một ví dụ.

Vì sao có sự khác biệt này? Đó chính là do sự khác biệt giữa đời sống xuất gia của một tu sĩ và cuộc sống tại gia của người cư sĩ. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, cần tìm hiểu cụ thể từng cách quán một.
 
2.1 Quán Khổ Trên Vô Thường

Như được biết, quán khổ trong vô thường có nghĩa là trong khi bị đau khổ hãy nghĩ đến sự vô thường của chính nó. Trong cõi đời biến dịch này không có một đau khổ nào là thường hằng vĩnh viễn. Nhờ thấy được khổ trong vô thường giúp giảm đi nỗi khổ, ngược lại thấy khổ đau theo hướng thường hằng sẽ khiến khổ đau nhân lên, thậm chí dẫn đến bế tắc.

Còn thế nào là quán khổ trên vô thường? Cách quán này giúp diệt khổ đau như thế nào? Trong kinh Nikāya, có rất nhiều bài kinh dẫn giải cách quán này, và nhiều trường hợp điển hình nhờ cách quán này đã vượt thoát được khổ đau. Một trong số đó là trường hợp của bà Patācārā.

Nếu có thể định lượng được khổ đau thì khổ đau của bà Kisa Gotami ở trên ví như một, còn khổ đau mà bà Patācārā phải chịu đựng gấp nhiều lần hơn, thảm khốc nhiều hơn, đến độ khó tìm được một ai bất hạnh hơn cảnh ngộ của bà. Đứng trước nỗi đau khổ tột cùng của mình, bà Patācārā cũng trở nên điên loạn.

Câu chuyện về bà Patācārā được kinh văn ghi lại nguyên văn như sau trong Therī.134 (= N.47)

“Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sinh trong gia đình vị thủ ngân khố nhà vua ở Sāvatthi. Khi đến tuổi trưởng thành nàng giao du với một người đầy tớ trong nhà. Khi cha mẹ nàng định ngày gả nàng cho một chàng trai xứng đôi, nàng trốn đi với người tình nhân và sống tại một ngôi làng nhỏ.

Khi nàng sắp sinh, nàng bảo chồng đưa nàng về nhà cha mẹ, vì ở đây không có ai săn sóc nàng, nhưng chồng nàng cứ hẹn lần hẹn hồi cho đến khi nàng biết chồng nàng không muốn đi về. Nàng liền chờ chồng đi vắng, sắp đặt công việc, tin cho người láng giềng biết rồi nàng bỏ về nhà cha mẹ.

Khi người chồng về, người chồng liền đuổi theo, sợ nàng không có người săn sóc. Chồng nàng bắt gặp nàng và giữa đường nàng sinh được người con, rồi hai vợ chồng lại đi trở về làng.

Ðến kỳ sinh nở thứ hai, sự việc xảy ra như lần trước, nhưng có điểm khác biệt như sau: giữa đường mưa to gió lớn nổi lên, người chồng tìm lá và cây làm cái chòi cho nàng tránh mưa, nhưng bị con rắn từ gò mối bò ra cắn chồng nàng chết tại chỗ. Trong cơn đau khổ chờ đợi chồng nàng, nàng bồng đứa con trên ngực và giữa mưa to gió lớn nàng nằm phục xuống đất để che chở cho hai đứa con trải qua một đêm như vậy cho đến sáng.

Ðến sáng, nàng đi tìm chồng và thấy chồng bị rắn cắn chết rồi. Nàng khóc than suốt đêm. Vì mưa to, nước sông dâng lên đến đầu gối, nàng lại quá yếu nên không thể bồng hai đứa con lội qua sông. Nàng để đứa lớn ở bờ bên này và bồng đứa nhỏ lội qua sông. Rồi nàng đặt đứa nhỏ nằm trên khăn trùm đầu, dùng cành cây che lại để nó trên bờ, còn nàng lội qua sông lại để đem đứa lớn qua.

Nhưng đến giữa dòng, quay mình trở lại thời thấy một con diều hâu, tưởng đứa con nít là một miếng thịt, nên bay xuống tha đứa nhỏ đi. Dầu cho người mẹ có xua đuổi và la lên nhưng vì quá xa nên không làm gì được. Còn đứa lớn bên bờ bên này, nghe tiếng mẹ la tưởng là mẹ kêu liền lội xuống nước đi qua và bị nước cuốn trôi.

Thế là hai đứa con và cả người chồng bị chết. Nàng vừa khóc vừa đi về thành Sāvatthi, lại được tin hồi hôm mưa to gió lớn làm sụp đổ căn nhà của cha mẹ nàng, giết chết cả cha mẹ và em nàng vừa làm lễ hỏa táng xong. Trong cơn đau khổ khủng khiếp chồng chất, nàng hóa điên dại, ăn mặc hở hang, nàng vừa khóc vừa than:

Hai con ta đã chết, Chồng ta cũng chết luôn, Rồi trên giàn hỏa táng, Cha ta và mẹ ta, Cùng đứa em trai ta, Vừa làm lễ thiêu đốt.
Rồi nàng đi lang thang đây đó, khóc than nỗi đau khổ của nàng, và vì nàng mang xiêm áo tả tơi, nàng được gọi là Patācārā (kẻ mang xiêm áo)...”

Quả là đau khổ tận cùng! Chồng chết thảm, hai con chết thảm, cha mẹ và em cũng chết thảm, tài sản tan tành! Còn nỗi đau khổ nào hơn nỗi đau khổ của bà Patācārā? Nhưng nào đã hết đâu, cũng theo kinh văn ghi lại, nhiều người thấy bà thất thần với y áo tả tơi, đã không thương hại bà thì chớ còn chế diễu bà là người điên, có kẻ còn ném đá, ném đồ dơ xua đuổi bà. Còn bất hạnh nào hơn bất hạnh mà bà Patācārā đã phải gánh chịu?

Những ai đang nghĩ rằng mình bất hạnh, hãy nhớ đến bà Patācārā để thấy rằng mình vẫn còn may mắn, hãy chia xẻ với thảm cảnh của bà để xoa dịu chính nỗi đau của mình. Nhưng quan trọng hơn, hãy tìm hiểu xem bà Patācārā đã thoát khỏi sự điên loạn như thế nào? Đã giải thoát khỏi khổ đau ra sao? Phương pháp có hợp lý không? Có thực tế không?

Nghiên cứu kỹ câu chuyện về bà Patācārā sẽ thấy, ở đây, không có sự hoang đường nào cả, mà chỉ có lòng từ bi của đức Phật, diệu pháp của Ngài, và sự nỗ lực nơi bản thân bà Patācārā mới cứu được cho bà.

Thật vậy, cũng theo kinh văn ghi lại, bà Patācārā trên bước đường trôi lăn cùng khổ đã đến thành Jetavana. Khi ấy đức Phật cũng đang ở tại Jetavana. đức Phật thấy mọi người đối xử thô bạo với bà, Ngài liền can ngăn và khuyên mọi người phải trải lòng từ bi đối với bà. Ngài bảo người đem y áo lành lặn cho bà và cho phép bà đến gần.

Trước tấm lòng từ bi của đức Phật, bà Patācārā cảm động hồi tỉnh dần. Bà đặt lòng tin tưởng nơi bậc Đạo sư từ bi và trải nỗi đau thương cùng tột của mình. Bà cầu xin Ngài cứu giúp bà.

đức Phật nghe xong, Ngài đã chỉ cho bà thấy những khổ đau trong hiện tại chỉ là một trong muôn vàn khổ đau mà bà đã phải chịu đựng qua bao kiếp luân hồi. Nước mắt bà đã từng khóc cha, khóc mẹ, khóc chồng, khóc con, khóc cho người thân qua bao kiếp luân hồi còn nhiều hơn cả nước trong bốn biển lớn. Giờ đây bà phải tự cứu lấy chính bản thân mình thoát khỏi nỗi đau hiện tại lẫn nỗi đau trong muôn kiếp.

Ngài đã dạy bà bài kệ:

“Nước bốn biển ít hơn, Nước mắt của loài Người, Khóc than vì đau khổ, Vậy sao nàng hủy hoại, Sinh mạng của chính mình, Trong khóc than sầu khổ!” (Sđd)

Rõ ràng để cứu cho bà Patācārā khỏi sự đau khổ đến mức điên loạn, đức Phật đã không dùng ‘hạt cải’ như trường hợp của bà Kisa Gotami. Vì sao như vậy? Vì dù bà Patācārā có đi khắp cùng trời cuối đất, hỏi tất cả mọi người cũng khó tìm thấy ai đau khổ tận cùng như bà. Lúc ấy không những bà Patācārā đã không bớt khổ đau mà còn tủi thân nhiều hơn, cảm thấy mình bất hạnh nhiều hơn. Vì vậy phương pháp quán ‘vô ngã trong khổ,’ theo hướng thấu cảm nỗi đau của người khác để giảm nhẹ nỗi đau của mình, không thích ứng với bà Patācārā.

Nhưng bà Patācārā cũng giống như bà Kisa Gotami, ở chỗ, cả hai đều nhận được tấm lòng từ bi của đức Phật. Cả hai được lắng nghe để chia xẻ niềm đau, nhờ vậy bà Patācārā và Kisa Gotami được an ủi để hồi tỉnh dần. Từ đó cả hai có thêm sự tin tưởng nơi bậc Đạo sư và giáo pháp của Ngài. Sự tin tưởng này là yếu tố quan trọng giúp họ thoát dần bế tắc và tinh tấn tu tập. Trong hai pháp Năm Căn và Năm Lực, Tín căn dẫn đến Tấn căn, Tín lực dẫn đến Tấn lực cũng theo ý nghĩa này. Càng tinh tấn tu tập đúng chánh pháp, càng được giải thoát.

Do vậy, đối với những người bị tâm thần nói chung và rối loạn tâm lý nói riêng, mọi người không nên có thái độ thô bạo hoặc khinh ghét họ khiến gây thêm ức chế tâm lý có hại cho họ. Trái lại phải khoan dung hơn, đối xử với họ cẩn trọng hơn. Đồng thời phải hiểu rõ những hoàn cảnh bức bách đau khổ của họ để thông cảm với họ, từ đó tạo lòng tin tưởng nơi họ, có vậy mới giúp cho họ thoát dần khỏi sự khủng hoảng về tâm lý.

Hơn thế nữa, phải có những phương pháp thích đáng để giúp cho họ tự vượt thắng nghịch cảnh của mình. Trong trường hợp của bà Patācārā, đó là cách ‘quán khổ trên vô thường.’

Thật vậy, khi đức Phật dùng hình ảnh nước mắt của loài người khóc than vì sầu khổ, vì mất mát người thân qua bao kiếp sống luân hồi còn nhiều hơn nước biển đại dương, điều này đã giúp cho bà Patācārā thấy ra được những khổ đau qua bao kiếp luân hồi còn to lớn hơn, kinh khủng hơn nỗi đau khổ hiện tại.

Bà hiểu ra rằng mỗi kiếp sống là một kiếp vô thường, và trên mọi kiếp vô thường ấy vẫn chỉ là một chữ khổ: khổ vì sinh-già-bệnh-chết; khổ vì sầu-bi-khổ-ưu-não, khổ vì khóc cha, khóc mẹ, khóc con, khóc những người thân, khổ vì những tai nạn bất ưng, những thiên tai, nhân tai bất tận. Nói khác đi, phải thấy như thật khổ đau trên mọi kiếp sống vô thường.

Khi và chỉ khi, bà Patācārā thấy được những nỗi đau khổ còn to lớn hơn, vô cùng hơn qua bao kiếp luân hồi như vậy, chính lúc ấy nỗi đau hiện tại của bà sẽ nhỏ lại và vơi đi.

Giống như một đứa bé quẩn quanh trong làng, nó chỉ thấy ngọn núi đầu làng là to lớn nhất, hùng vĩ nhất. Nhưng khi đứa bé trưởng thành hơn, nó thấy được nhiều ngọn núi còn to lớn hơn, hùng vĩ hơn, tự nhiên nó sẽ thấy ngọn núi đầu làng nhỏ lại. Khi nó thấy được sự hùng vĩ của dãy núi chúa Himalayas, nó sẽ thấy ngọn núi đầu làng càng nhỏ hơn nữa. Cứ thế đứa bé quán thấy được sự vĩ đại của cả trái đất, cả Thái Dương Hệ, cả vụ trụ; thì ngọn núi đầu làng chẳng đáng là gì cả.

Khổ đau cũng giống như vậy! Khi bà Patācārā chỉ nhìn thấy nỗi đau hiện tại, bà đã bị nó quật ngã. Nhưng khi bà nhận thức được nỗi đau khổ trong sinh tử luân hồi còn to lớn hơn, còn kinh khủng hơn rất nhiều lần nỗi đau hiện tại; hẳn nhiên nỗi đau khổ hiện tại phải thu nhỏ lại.

Khi bà Patācārā ý thức như thật rằng, nước mắt của bà qua bao kiếp luân hồi khóc cho người thân, cho số phận còn nhiều hơn nước của đại dương, chính lúc ấy bà mới thấy nước mắt khóc thương trong kiếp hiện tại chỉ là muôn một. Khi nỗi đau hiện tại được thu nhỏ lại, bà Patācārā sẽ bình tĩnh hơn. Sự bình tâm là bước đầu tiên thoát khỏi điên loạn. Có thoát khỏi điên loạn mới tiến tới giải thoát khổ đau được.

Có thể nói đây là phương pháp thấy khổ ‘lớn’ để diệt khổ ‘nhỏ’, giống như việc dùng một cái mâm lớn che khuất một cái mâm nhỏ vậy. Chỉ có điều, khổ đau hiện tại mà bà Patācārā đang gánh chịu có ẩn chứa trong đó sự ái luyến, chính sự ái luyến này gây ra đau khổ và che mờ lý trí; còn khổ đau to lớn hơn qua bao kiếp luân hồi không có ái luyến, nó chỉ đơn thuần là sự nhận thức của lý trí tỉnh giác.

Vì sao như vậy? Vì theo pháp Nhân Duyên, ái luyến là do ‘xúc’ và ‘thọ’ tạo nên, do vậy khổ đau trong kiếp hiện tại có đầy đủ ba pháp này, cho nên nó là khổ đau như thực. Ngược lại khổ đau qua bao kiếp luân hồi tuy vĩ đại hơn, kinh khủng hơn nhưng nó không có tình cảm ái luyến (vì không có tiếp xúc và cảm thọ), nó chỉ thuần tuý thuộc về nhận thức của trí tuệ, do vậy ‘thấy khổ mà không khổ’ (Xem Giải mã 12 Chi Phần Nhân Duyên).

Cái ‘mâm nhỏ’ khổ đau trước mắt do ái luyến chi phối tuy ‘nhỏ’ nhưng nó rất nguy hiểm, đến mức nó có thể gây ra trầm cảm, điên loạn, thậm chí tự tử. Ngược lại cái ‘mâm lớn’ - khổ đau trên bao kiếp luân hồi - tuy cũng là khổ nhưng không bị ái luyến chi phối, chỉ đơn thuần là sự nhận thức của lý trí tỉnh giác, do vậy ‘thấy khổ mà không khổ’ và từ đây mới hiểu và thực hiện được diệu pháp ‘thấy khổ để diệt khổ.’

Vị Tỳ-kheo cần phải thấy rõ cuộc sống là vô thường, tất cả mọi kiếp sống trong sinh tử luân hồi cũng đều là vô thường, và trên hết mọi sự vô thường ấy vẫn là một chữ ‘khổ’. Thấy rõ khổ qua bao kiếp luân hồi chính là để tiêu diệt nỗi khổ của hiện tại, và hơn thế nữa để tinh tấn tu tập thoát khổ. Đây cũng chính là nội dung ý nghĩa của phương pháp ‘quán khổ trên vô thường’ hay ‘thấy khổ để diệt khổ.’

Cũng theo kinh văn ghi lại, bà Patācārā nhờ được đức Thế Tôn chỉ dạy nên dần hồi tỉnh và bình tĩnh hơn. Nhờ cách quán khổ trên vô thường nên bà Patācārā đã nhận chân được sự nguy hiểm thật sự. Từ nhận chân sự thật nguy hiểm đến nỗ lực tinh tấn tu hành thoát hiểm là điều dễ hiểu. Và nhờ tinh tấn tu hành thoát khổ mới dần thoát khỏi khổ đau. Nhờ vậy cuối cùng bà Patācārā cũng đã đâm thủng được vô minh, đắc được quả A La Hán, giải thoát ngay trong hiện tại và sinh tử luân hồi. Không những thế, bà Patācārā còn cứu được cho nhiều người khác nữa.

Trong Trưởng lão Ni kệ còn ghi: nhiều người đau khổ khi biết câu chuyện về đời bà đã tìm đến nhờ bà giúp đỡ. Với kinh nghiệm của chính mình, bà Patācārā đã giúp cho rất nhiều người. Trong số đó có 30 vị Tỳ-kheo-ni tu theo bà cũng đều đắc quả Thánh A La Hán (Therī. 135 = [N.48])

Câu chuyện về bà Patācārā đã cho thêm một minh chứng cho nguyên lý bất di bất dịch của Phật Pháp: thấy khổ để diệt khổ. Vị tu sĩ có thấy rõ nỗi khổ của mình mới không làm khổ mình thêm, mới nỗ lực cứu cho mình. Hơn thế nữa, đệ tử Phật phải thấu nỗi khổ của người để không làm khổ người nữa, mới nỗ lực cứu cho người.

Đạo Phật hoàn toàn không phải như một số người ngộ nhận là một tôn giáo chỉ thấy khổ để rồi bi quan yếm thế (?!) Rõ ràng chỉ cần một tấm gương tiêu biểu của Thánh Ni Patācārā cũng đủ cho thấy những ngộ nhận về Đạo Phật, và về vị Thánh Thanh Văn đệ tử Phật sai lầm như thế nào!

Hẳn nhiên, những lời dạy của bậc Đạo Sư Minh Hạnh Túc không phải chỉ có bấy nhiêu. Cả một tạng Kinh Nikāya đồ sộ là một kho tàng vô giá giúp cho những ai muốn diệt khổ, giải thoát cho chính mình. Ở đây chỉ trích dẫn thêm những lời dạy của Bậc Đạo sư về cách quán khổ trên vô thường nhằm giúp người học Phật nhận thức rõ hơn ý nghĩa của pháp quán này.

- “... Cái này là nhiều hơn, này các Tỳ-kheo, tức là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải nước trong bốn biển lớn.

Trong một thời gian dài, này các Tỳ-kheo, các Ông chịu đựng mẹ chết... các Ông chịu đựng con chết ... các Ông chịu đựng con gái chết ... các Ông chịu đựng tai họa về bà con ... các Ông chịu đựng tai họa về tiền của... Trong một thời gian dài, này các Tỳ-kheo, các Ông chịu đựng tai họa của bệnh tật.

Cái này là nhiều hơn, là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì mình không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải chịu đựng tai họa của bệnh tật chớ không phải nước trong bốn biển.

Vì sao? Vô thỉ, này các Tỳ-kheo, là sự luân hồi này. Ðiểm bắt đầu không thể nêu rõ đối với chúng sinh bị vô minh che đậy, bị khát ái trói buộc. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành” (Bài kinh Nước Mắt, TƯ2, 179 = [I.12.3]).

- “Vô thỉ, này các Tỳ-kheo, là sự luân hồi này. Ðiểm bắt đầu không thể nêu rõ đối với chúng sinh bị vô minh che đậy, bị khát ái trói buộc, phải lưu chuyển, luân hồi.

Có thể có một thời, này các Tỷ kheo, biển lớn đi đến khô cạn, hoàn toàn đi đến khô kiệt, không có hiện hữu. Nhưng này các Tỷ kheo, Ta không có tuyên bố rằng, có sự chấm dứt khổ đau đối với chúng sinh bị vô minh che đậy, bị khát ái trói buộc, phải lưu chuyển, luân hồi.

Có thể có một thời, này các Tỳ-kheo, Sineru (Tu-di), Vua các núi, đi đến băng hoại, hoại diệt, không có hiện hữu. Nhưng này các Tỳ-kheo, Ta không có tuyên bố rằng, có sự chấm dứt khổ đau đối với chúng sinh bị vô minh che đậy, bị khát ái trói buộc, phải lưu chuyển, luân hồi!

Có thể có một thời, này các Tỳ-kheo, đại địa đi đến băng hoại, hoại diệt, không có hiện hữu. Nhưng này các Tỳ-kheo, Ta không có tuyên bố rằng, có sự chấm dứt khổ đau đối với chúng sinh bị vô minh che đậy, bị khát ái trói buộc, phải lưu chuyển luân hồi!” (Bài kinh Dây Thằng, TƯ3, 149 = [Ve.7.99])

Thực tế mỗi cuộc sống chỉ là một kiếp vô thường trong vòng xoáy bất tận của sinh tử luân hồi, và vượt trên tất cả mọi kiếp sống vô thường ấy vẫn là một chữ ‘khổ’ Một tu sĩ có trí tuệ thấy như thật sự khổ đau phủ đầy trên mọi kiếp sống vô thường ấy, thấy rõ được sự nguy hiểm trước mắt và lâu dài đang bao quyện và chờ đón mình, liệu người này có còn muốn tham luyến vào trong những trói buộc đầy hệ lụy? hay họ phải dốc sức quyết tâm đi tới giải thoát hoàn toàn?

Một người tu sĩ tuy đã xuất gia nhưng không thấy khổ đau lăn tròn trên sinh tử luân hồi nên mới còn tham đắm chút vị ngọt cuộc đời. Vị này vì không nghĩ đến nguy hiểm của ‘biển nước mắt khổ đau’ nên vẫn còn vô mình ngụp lặn trong đó.

Chính vì không thấy khổ đau trên mọi kiếp vô thường nên mới không muốn từ bỏ sinh y, tài sản, danh vọng, quyền lực, địa vị, tranh chấp. Chính vì không thường xuyên quán xét khổ trên vô thường theo nhiều cách khác nhau nên mới còn dễ duôi, phóng dật, buông thả theo những tham muốn thế tục.

Ngược lại vị Tỳ-kheo phải thấy khổ đau trôi lăn theo ta trong hiện tại lẫn trong mỗi kiếp luân hồi như một người luôn bị một kẻ khác cầm ngọn đao đưa lên sẵn sàng gieo sự vô thường cho mình bất cứ lúc nào và bất kỳ ở đâu.

Nhờ thường xuyên quán xét như vậy mà một tu sĩ có được sự sợ hãi đúng pháp, nhờ biết sợ hãi đúng pháp nên vị Tỳ-kheo phải luôn tinh tấn tu tập, luôn tích cực nỗ lực để vượt thoát khỏi khổ đau. Đây cũng chính là ý nghĩa của cách “quán khổ trên vô thường”.

“Tưởng khổ trên vô thường, này các Tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy?

Này các Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, thời các tưởng sợ hãi sắc bén được an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; ví như một kẻ giết người giơ đao lên.

Này các Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, nhưng các tưởng sợ hãi sắc bén không được an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; thời không giống như một kẻ giết người giơ đao lên.

Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ấy cần phải hiểu rằng: "Tưởng khổ trên vô thường không được ta tu tập; ở nơi ta không có sự sai khác trước và sau. Ta không đạt được quả của sự tu tập." Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.

Nhưng này các Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo sống nhiều với các tưởng khổ trên vô thường, thời các tưởng sợ hãi sắc bén an lập trên thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát, ví như một kẻ giết người giơ đao lên.

Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo cần phải hiểu rằng: "Tưởng khổ trên vô thường được ta tu tập; ở nơi ta có sự sai khác trước và sau. Ta đạt được quả của sự tu tập.” Ở đây, vị ấy tỉnh giác như vậy.

Tưởng khổ trên vô thường, này các Tỳ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục đích, được nói đến như vậy. Do duyên gì được nói đến như vậy...” (TC3, C7, kinh số 46, tr.347 = [I.7.46]).

Vì cách ‘quán khổ trên vô thường’ có ý nghĩa thiết thực giúp cho người tu sĩ xuất gia tích cực tu tập để giải thoát ngay trong kiếp sống này, cho nên đức Thế Tôn thường dạy cách quán này cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni là vì vậy.

2.2 Quán Vô Ngã Trên Khổ

Như đã phân tích ở trên, ‘quán vô ngã trong khổ’ có nghĩa là trong đau khổ không nên ngã chấp mình và chấp mạn với người khác. Còn cách ‘quán vô ngã trên khổ’ mang ý nghĩa khác hơn.

Như đức Phật đã dạy: “Chư Tỳ-kheo, xưa cũng như nay, Như Lai chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ” (TB1, 22). Nói lên sự khổ, thấy khổ để diệt khổ chứ không phải lấy khổ làm phương châm đi tới giải thoát như những người khổ hạnh quan niệm.

Đạo Phật không chủ trương khổ hạnh ép xác, nhưng cũng không chạy theo thoả mãn cho dục lạc. đức Phật chủ trương con đường trung đạo theo Tám Chánh Đạo và dùng hỷ lạc đi tới giải thoát.

“Vô thỉ, này các Tỳ-kheo, là sự luân chuyển, khởi điểm không thể nêu rõ, đối với (những đau khổ) do bị thương đâm, do bị kiếm chém, do bị búa chặt.

Dầu vậy đi chăng nữa, này các Tỳ-kheo, Ta cũng không tuyên bố rằng nhờ khổ và ưu mà bốn Thánh đế được chứng ngộ.

Nhưng này các Tỳ-kheo, Ta tuyên bố rằng nhờ lạc và hỷ mà bốn Thánh đế được chứng ngộ.” (S.v,440 = [Ve.4.35])

Đối với vị tu sĩ hành thiền, tùy theo nghiệp và theo trạng thái của từng người, có thể trải nghiệm những cảm thọ hỷ lạc hoặc khó chịu khác nhau. Riêng đối với những cảm thọ khó chịu, nếu vị tu sĩ không tác ý đúng sẽ thấy đây là khổ và ưu tức khắc, thậm chí có người còn đâm ra tức tối với chính mình. Về lâu dài, các kiểu tác ý sai và trạng thái tâm lý bất lợi này dễ khiến vị tu sĩ đi đến lười nhác, buông lung, phóng dật.

Gặp những cảm thọ bất như ý này, nếu vị tu sĩ chấp thủ cảm thọ là ta, là của ta, và tác ý theo chiều hướng thấy ‘ngã trên khổ: tôi đang bị đau, tôi đang bị khổ,’ thì vì tu sĩ sẽ bị đau khổ nhiều hơn, đau khổ hai lần: đau nơi thân và khổ nơi tâm do chấp dính vào cảm thọ đó.

Như vậy, ý nghĩa thứ nhất của cách ‘quán vô ngã trên khổ’ có nghĩa là khi những cảm thọ bất như ý phát khởi, vị tu sĩ không nên chấp thủ thọ ấy là ta, là của ta, là tự ngã nơi ta; và cũng không nên dựa vào đó để so sánh với người khác.

Thêm nữa, vị tu sĩ phải có nhận thức tích cực hơn, tác ý đúng đắn hơn. Vị tu sĩ phải hiểu rằng cuộc sống vốn vô thường với cả những bất trắc, bệnh tật và tai ương. Một khi những đau khổ bất như ý này xảy đến, mọi người không có một cách nào khác là phải biết chấp nhận chúng như sự thật vốn có của cuộc đời.

“1.- Này các Tỳ-kheo, có năm sự kiện này không thể có được bởi Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm Thiên, hay bởi một ai ở đời. Thế nào là năm?

2. Phải bị già, muốn khỏi già, là một sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la- môn, bởi Ma hay Phạm Thiên, hay bởi một ai ở đời. Phải bị bệnh, muốn không bệnh... Phải bị chết, muốn không chết... Phải hoại diệt, muốn không hoại diệt... Phải bị tiêu diệt, muốn không tiêu diệt, là một sự kiện không thể có được bởi một Sa môn hay Bà la môn, bởi Ma hay Phạm Thiên, hay bởi một ai ở đời.” (Kinh Sự Kiện Không Thể Có Ðược, Tăng Chi 2, Chương 5, V. Phẩm Vua Munda = [I.5.48]).

Phàm làm người không một ai thoát khỏi già, bệnh, chết, hoại diệt, tiêu diệt. Do vậy, lòng mong muốn những điều không thể có là một ảo tưởng nguy hại. Chính vì thế, không biết ý thức về nỗi khổ đau tất yếu của cuộc đời, khi nỗi khổ đến phải đấm ngực khóc than. Ngược lại, nhận thức như thật khổ đau và có sự chuẩn bị tinh thần, khi vô thường xảy đến sẽ dễ kham nhẫn hơn.

Trong bài kinh Tất Cả Lậu Hoặc, đức Phật đã dạy rõ có những phiền não lậu hoặc phải do kham nhẫn mới đoạn trừ được.

“Và này các Tỳ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ? Này các Tỳ-kheo, ở đây, có Tỳ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; kham nhẫn những cách nói mạ lị phỉ báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung sướng, không thích thú, chết điếng người.

Này các Tỳ-kheo, nếu vị ấy không kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỳ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.” (TB1, kinh số 2 = [U.4]) 

Vị tu sĩ trong khi hành thiền nếu không tập kham nhẫn trước những cảm thọ bất như ý nhỏ, thời làm sao chịu đựng nổi những thọ khổ lớn hơn do già, bệnh, chết đem lại? Vì vậy, nếu những cảm thọ phát khởi, vị tu sĩ hãy xem chúng như người bạn lành giúp ta tập làm quen với những đau khổ không thể tránh khỏi trong tương lai, thay vì ôm giữ nó và cắn răng chịu đựng cho đến hết giờ thiền.

Hơn thế nữa, người hành thiền hãy tập tách mình ra khỏi những cảm thọ khó chịu đó, xem nó như là một đối tượng khác, và ta là một đối tượng khác. Hãy tập như lý tác ý ‘thọ này không phải là ta, là của ta, là tự ngã nơi ta;’ và tập xem ‘ta’ với ‘thọ uẩn’ giống như ‘Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai.’ Hãy tập tách mình ra khỏi mọi cảm thọ và tập quan sát nó, thay vì chấp thủ nó theo tác ý thấy ngã trên khổ ‘tôi đang đau, tôi đang khổ.’

Người tu thiền hãy xem mọi cảm thọ như một loại ‘định tướng’ trong khi hành thiền, và khi chúng khởi lên, đừng tham chấp cũng đừng chán ghét, mà hãy tập quán sát chúng. Trong bài kinh Năm Chi Phần, đức Thế Tôn chỉ dạy có năm sự tu tập về Thánh chánh định gồm tu tập về Bốn thiền và cách thứ năm l&a
loading...