Sách Phật giáo

Pháp tu Quan Âm, phương pháp bí truyền của Mật Tông Tây Tạng

Chủ nhật, 14/02/2020 04:18

Bằng một phương pháp hết sức đặc thù, quyển sách nhỏ này đã diễn tả sự phát triển tâm từ bi và tuệ giác siêu việt của hàng Bồ Tát. Trong Phật Giáo, có rất nhiều phương pháp như thế; nhưng, ở đây (Trong sách này), chỉ đặc biệt đề cập đến một phương pháp, đó là: Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp.

> Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Đức Phật tại đây 

Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp là một Pháp chuyên quán tưởng đến một vị Bồ Tát siêu đẳng, lừng danh có tên là Quán Thế Âm và thần chú: Lục Đại Tự Minh (Om Mani Padme Hùm). Pháp tu này đã được truyền thừa bởi Đạo Sư Tangtong Gyalbo (Thang-Stong rGayl-po), vị Thánh Tăng của Phật Giáo Tây Tạng ở vào thế kỷ thứ 15. Cho đến nay, pháp môn này vẫn đang được mọi người đón nhận và hành trì một cách sâu rộng, thâm thiết.

Phần lớn, trong suốt dòng lịch sử của Phật Giáo, ta thấy, có rất nhiều quốc gia ở Á Châu, đã sùng tín, thực hành pháp tu liên hệ đặ̣c biệt đến pháp tu Quán Âm và Lục Tự Minh Chú này; Vì lẽ, Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Bồ Tát đã được toàn thể nhân gian tôn kính như là một biểu tượng tối cao của Đại Bi Tâm của Bậc Bồ Tát. Bậc Bồ Tát̉ là một bậc thệ nguyện đạt đến quả vị giác ngộ theo giáo lý của Phật, để, trên cầu Phật Đạo, dưới độ chúng sanh; và, nếu còn có một chúng sanh nào trên thế gian này mà chưa độ thì, Bồ Tát nhất định không thôi nghỉ. Quán Âm Bồ Tát là một trong những vị Bồ Tát đã thực hiện rất sớm thệ nguyện rộng lớn này; vì thế, đối với nhiều người tu hành trong Phật Giáo, Bồ Tát Quán Âm đã thường được nhận là có một quan hệ bất khả phân với sự cần Đạo Giác Ngộ, Giác Thoát.

Bìa của cuốn sách Pháp tu Quan Âm, phương pháp bí truyền của Mật Tông Tây Tạng

Bìa của cuốn sách Pháp tu Quan Âm, phương pháp bí truyền của Mật Tông Tây Tạng

Danh xưng Quán Âm vốn tiếng Phạn: Avalokiteshvara (Tiếng Sanskrit, văn tự cổ Ấn Độ, nơi mà từ đó Phật Giáo đã khởi nguyên). Avalokiteshvara có nghĩa là Bậc có oai lực xem xét và bảo hộ chúng sanh. Ngài cũng được tôn xưng là Mahakarunita (Người có Đại Bi Tâm) và Padmapani (Kẻ thủ trì hoa sen - Liên Hoa Thủ). Chúng ta có thể tìm hiểu Quán Âm Bồ Tát trong kinh “Duy Ma Cật” (Vimalakirtinirdesha Sutra) và phẩm thứ 25, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapundarika Sutra). Theo “Cực Lạc Trang Nghiêm Kinh” (Sukhavativyuha Sutra), Ngài là thị giả của Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang) và đã có một quan hệ rất rõ rệt đối với Tịnh Độ. Ngoài ra, có một bộ kinh hết sức trọng yếu, đó là kinh Karandavyuha Sutra, kinh này đã thuyết minh một cách chi tiết, rõ ràng Tâm Đại Bi và oai lực thần thông diệu dụng của Quán Âm Bồ Tát. Kinh “Lăng Nghiêm” (Shurangama Sutra), cũng đã giải thích về phương pháp Khế Chứng Vô Ngã của Quán Thế Âm. Trong “Bát Nhã Tâm Kinh” (Prajnaparamita-hrdaya Sutra) Quán Âm đã xiển minh cùng cực triết lý thâm áo về Trung Đạo Bất Nhị; và trong “Liên Hoa Võng Mật Kinh” (Padmajala Tantra) đã hàm chứa rất nhiều tư liệu nói rõ sự quan hệ giữa Quán Âm và Mật Tông Kim Cang Thừa (Vajrayana).

Thệ nguyện của Quán Âm là tế độ tất cả chúng sanh, một trong những phương pháp mà Ngài đã sử dụng là quan sát nhu yếu của tình cảnh chúng sinh để tùy loại hiện thân. Vì để tuân thủ lời nguyện của Ngài nên Ngài đã phân thân thành rất nhiều chủng loại và thị hiện qua nhiều hình thái khác nhau trước mỗi một chúng sanh trong rất nhiều cảnh giới. Khi cần thiết, thậm chí Ngài có thể hóa thân làm những vật vô tình như cầu cống, phòng xá, nơi trú ẩn, nương thân. Trong truyền thống tạc tượng chạm trổ hình đồ về sự thị hiện của Bồ tát Quán Âm, chúng ta cũng thấy được những loại biến hóa như thế. Song, những hình thái bất đồng đó có thể được coi như là sự hiển thị đa dạng của Phật tánh đồng nhất mà thôi.

Ở vào thời kỳ rất sớm tại Ấn Độ, hình tượng của Quán Âm phần nhiều đã được phát hiện dưới hình thức của một vị Vương Tử đang đứng, mình mặc áo mũ vương giả. Ta thấy, cũng có nhiều pho tượng ngồi trong tư thế nghỉ ngơi thoải mái (Gọi là tư thế du hý, “latitasana”); ngoài ra, còn có một tượng rất nổi tiếng có tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm, mục đích của Thiên Thủ là đáp ứng một cách trọn vẹn sự kỳ cầu vô tận nhưng vô cùng cần thiết của tất cả chúng sanh. Quán Âm còn xuất hiện trong một hình tướng phẫn nộ như Phục Bộ Thần Mã Đầu Minh Vương (Hayagriva), lý do của sự xuất hiện này là vì đôi khi bên cạnh lòng Từ Bi đòi hỏi phải có những thế lực mãnh liệt để làm chúng sinh kính sợ. Phương pháp Thiền Định Quán Âm (Hay “Thiền định cho tất cả chúng sanh qua suốt cõi không gian”) được trình bày trong quyển sách nhỏ này có liên hệ đến thế ngồi của Quán Âm với một đầu và bốn tay, hình tượng này đã trở thành một hình tượng hết sức đặc thù và vô cùng trọng yếu tại Tây Tạng. Những chi tiết diễn tả về hình dạng Quán Âm với bốn tay sẽ được trình bày trong chương sau.

Phap tu Quan Am 2

Sau khi Phật Giáo được truyền từ Ấn Độ vào các nước Á Châu, vị thế của Quán Âm lại ngày một gia tăng rộng lớn. Nhiều ngôi chùa lớn tại Đông Nam Á đã thờ phụng Thế Tự Tại Vương (Lokeshvara), một hiện tướng khác của Quán Âm Bồ Tát như là phản hiện với thần Shiva của Ấn Độ Giáo. Tại phương Bắc, ở Nepal (Nê Bạc Nhỉ), đã từng có đến 108 hình tượng Quán Âm. Những hình tượng này rất có thể vẫn còn thấy được hiện diện trong một cổ miếu tại Kathmandu. Người Tây Tạng đã xem Quán Âm Bồ Tát (Tây Tạng tôn xưng là Chenrezig) như là một lý tưởng tối cao của Phật Giáo đồ. Rất nhiều bậc Thánh Tăng của Tây Tạng, đặc biệt là đức Dalai Lama (Đạt Lai Lạt Ma) được coi như là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát. Tại Viễn Đông, vị thế quan trọng của Quán Âm Bồ Tát đã phổ biến một cách hết sức rộng rãi; đặc biệt, xuyên qua những nghệ thuật phẩm nổi bậc về Quán Âm trong nhiều tư thế. Tại Trung Quốc, Quán Âm cũng còn được tôn xưng là Quán Thế Âm, tại Nhật Bản thì gọi là Kwannon. Trong tất cả những quốc gia ở Á Châu, Quán Thế Âm đã được tôn sùng như Bậc Vô Úy Thí tối thượng (Kẻ ban cho sự phòng hộ thoát khỏi mọi sợ hãi) và Ngài cũng được coi là Bậc Đạo Sư, nhất là được coi như Bậc truyền cảm, dẫn khởi, khai tác lòng Từ Bi giác ngộ sâu thẳm nhất.

Thế thì, lấy Quán Âm làm đối tượng để quán tưởng chính là con đường tối ư căn bản và hết sức hiệu lực đối với những ai chuyên tâm tầm cầu sự khai ngộ. Trong những trang được trình bày sau đây về Pháp Tu Quán Âm, hành giả phải học hỏi cách quán tưởng Bồ Tát Quán Âm một cách trực tiếp. Trong phương pháp giảng yếu này, bao gồm một thứ kỹ thuật khả dĩ khiến hành giả đang trong thiền định có thể cảm nhận được sự gia trì che chở của Quán Âm. Đang trong khi quán tưởng, hành giả và cảnh giới sở nghiệm của hành giả đều được quán tưởng như được trở thành giác ngộ viên mãn. Hành giả, lúc tụng Thần Chú Lục Tự (OM MANI PADME HUM), phải đồng lúc quán tưởng rằng: tất cả hình tướng, sắc tướng, âm thanh và tư tưởng đều đã được chuyển hóa thành hình sắc, âm thanh và tư tưởng của chính Quán Thế Âm.

Pháp Tu Quán Âm Quán Tưởng này (Nguyên tác: “Thiền Định Quán Tưởng cho tất cả chúng sinh suốt cõi không gian”) đã do Ngài Tangtong Gyalbo, một vị đại thánh của Tây Tạng soạn ra. Ngài đã từng có rất nhiều kinh nghiệm tu chứng và đươc̣ trực tiếp nhìn thấy sự thị hiện của chính Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tangtong Gyalbo đã được sinh ra tại Owa Latse vào năm 1361, thuộc vùng Tây bộ Tây Tạng. Lúc còn rất trẻ, Ngài đã say sưa thích thú, nhất là nghiên cứu, tu học giáo lỵ́ Phật Giáo, đặc biệt; những giáolý có liên hệ đến Ngài Quán Âm. Ngài đã hấp thụ một trình độ giáo lý tu chứng rất cao từ các bậc thầy lớn thuộc Kim Cang Đại Thừa của Ấn Độ và Tây Tạng đương thời; trong những bậc thầy đó có Ngài Kangapa Paljor Sherah là một bậc Đạo Sư chuyên gia hành trì về Quán Âm. Ngài cũng đã bỏ ra nhiều năm ròng rã để thủ đắc công phu tu tập thiền định và đã từng trực tiếp hấp thụ một cách bí nhiệm sự chỉ dạy và tâm thuật minh kiến truyền thọ từ chư Phật và chư Bồ Tát cũng như từ những bậc Đại Sư ở nhân gian trong quá khứ. Sau đó, Ngài đã du hóa khắp xứ Tây Tạng, Ấn Độ, Bhutan (Phủ Đơn), Trung Hoa và Mông Cổ. Bất cứ nơi nào Ngài đến, Ngài đều truyền bá Minh Chú “Án Ma Ni Bát Di Hồng” (OM MANI PADME HUM) cho rất nhiều đệ tử của Ngài.

Phap tu Quan Am 4

Pháp Tu Quán Âm do Tangtong Gyalbo soạn ra đã được đặt căn bản trên sự thân kiến và những kinh nghiệm tu chứng bản thân vê Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài đã truyền trao pháp tu cho các đệ tử, và sau đó đã được tương truyền từ thế hệ này rau thế hệ khác và cho mãi đến hôm nay. Vào thế kỷ thứ 19, pháp tu này đã rất được tán dương và phục hồi bởi hai vị Hòa Thượng Tây Tạng Jamyang Kyentse Wangbo Rinpoche và Jamgon Kongtrul Rinpoche. Nhờ thế, pháp tu này đã được truyền bá và thực hành rộng rãi đến toàn thể Phật Giáo đồ trên khắp thế giới.

Kỹ xảo trọng yếu mà Tangtong Gyalbo đã sử dụng để phát triển bao gồm nghi thức Đoạn Ngã (phá trừ ngã chấp, chữ Tây Tạng gọi là pháp tu GCOD - đọc là chod) và thuật Mật Tông Du Già bí truyền từ Dakini Niguma (Em của Sư Tổ Mật Tông Naropa) và phương pháp quán tưởng Vô Lượng Thọ Phật (Amitayus) để làm tăng thêm tuổi thọ. Đặc biệt Tangtong Gyalbo còn được người Tây Tạng ngưỡng mộ một cách cao độ vì công trình kiến thiết cầu treo bằng sắt trên toàn cõi Tây Tạng. Sau khi phát hiện mỏ thiết đồ sộ, phong phú, Ngài đã phát minh ra phương pháp luyện thép để chế tạo một loại thép không rỉ sét. Những chiếc cầu treo được Ngài kiến tạo theo phương pháp này, cho đến nay vẫn còn được sử dụng.

Tangtong Gyalbo viên tịch vào năm 1485, Ngài đã sống với một tuổi thọ rất cao (Ngài sống đến 124 tuổi), vì thế đã chứng minh một cách hùng hồn cái công hiệu của thuật tăng tuổi thọ mà Ngài đã truyền dạy. Từ những hành hoạt về Bồ Tát Hạnh vô cùng lợi ích đối với dân Tây Tạng trong cuộc sống của Ngài; vì thế, Ngài đã được tôn kính và được coi như là bậc hóa thân của Bồ Tát Quán Âm. Tangtong Gyalbo hiện vẫn tiếp tục thọ sanh (Tái sanh) như một bậc thượng sư muôn đời tại Tây Tạng. Hiện thân của Ngài hiện nay là Drubtob Rinpoche, ngài đã chào đời tại Golok thuộc miền Đông bộ Tây Tạng vào đầu kỷ nguyên này. Drubtob Rinpoche đang ở Bhutan và Ngài hiện là một bậc được tôn như là đại Minh Sư thần thông viên thành (Siddha) của “Thiết Kiều hệ, Mật Tông Tây Tạng”. Toàn bộ phương pháp giảng dạy của Tangtong Gyalbo đều được hoằng dương nơi những đạo tràng của Ngài, trong đó, gồm cả pháp tu Quán Âm. Đã có rất nhiều bậc thượng sư khác cũng đã truyền thọ pháp tu này như ngài Deshung Rinpoche ở Seatle, Washington, Ngài Kalu Rinpoche ở các trung tâm truyền bá Phật Giáo của Hòa thượng trên khắp thế giới, và Ngài Lama Kunga ở Ewam Choden Center tại Berkeley, California.

Tác Giả: Tangtong Gyalbo - Dịch Giả: Thích Viên Lý

loading...