Sống an vui
Sống biết đủ trong mùa đại dịch là hạnh phúc nhất
Thứ bảy, 11/08/2021 02:54
Sống biết đủ là thái độ sống tốt nhất mà chư Phật ba đời từng tuyên thuyết, các bậc Thánh nhân đã nỗ lực hành trì, hẳn nhiên các đệ tử Phật cần thực hiện nghiêm túc như là phương thức của đời sống đạo để hướng đến đoạn tận khổ đau.
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này, việc nhận thức và trải nghiệm thái độ biết sống đủ là điều hạnh phúc nhất. Thực ra, biết sống đủ là thái độ sống tốt nhất mà chư Phật ba đời từng tuyên thuyết, các bậc Thánh nhân đã nỗ lực hành trì, hẳn nhiên các đệ tử Phật cần thực hiện nghiêm túc như là phương thức của đời sống đạo để hướng đến đoạn tận khổ đau.
Đó là thái độ sống biết làm chủ tâm mình trước mọi hoàn cảnh, thậm chí trước những biến cố xảy ra do khách quan và chủ quan đưa đến. Thiên tai, đại dịch là những biến cố mà con người cần thể hiện một trong những thái độ sống đúng đắn nhất là biết sống đủ trong một môi trường đặc biệt như thế. Biết sống đủ tức là biết sống thiểu dục tri túc. Nghĩa là, bất cứ ai cũng có thể sống ít ham muốn mà biết đủ cho mình thì hạnh phúc đến với mình và đến với người khác. Trái với thái độ sống thiểu dục tri túc, thì con người luôn để tâm mong cầu thọ hưởng các dục, vì vậy khổ lụy càng chồng chất. Bởi Phật từng dạy, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, nguy hiểm càng nhiều hơn. Đấy gọi là thái độ sống “Đa cầu khổ não diệc đa”, cần phải loại trừ, vì không đem lại sự sẻ chia niềm vui cho chính mình và người khác.
Trong tiến trình dựng nước, giữ nước, mở nước của cha ông chúng ta, biết bao nhiêu biến cố lịch sử diễn ra: chiến tranh vệ quốc, thiên tai nạn dịch, khủng hoảng kinh tế, khiến người Việt Nam luôn có tinh thần và thái độ sống sẻ chia, đùm bọc, cần kiệm để vượt thoát, huống chi là người Phật tử Việt Nam bao giờ cũng có thái độ biết sống thiểu dục tri túc một cách tự nhiên, bởi họ thấu hiểu:“Tri túc tâm thường lạc, Vô cầu phẩm tự cao” (Người biết sống đủ thì tâm thường an lạc, một cái tâm không mong cầu, hệ lụy về danh vọng, sắc đẹp, tiền tài, ăn ở, quyền lực thì phẩm hạnh, nhân cách đáng được tôn kính). Nhờ thực hành nếp sống thiểu dục tri túc, tâm không mong cầu thọ hưởng các dục mà tự thân mỗi người vượt thoát khổ đau trong mọi hoàn cảnh và tạo nên sức mạnh nội tại tự thân có khả năng liên kết với cộng đồng rất mạnh mẽ.
Thực tế “thiểu dục tri túc” là khái niệm được xuất phát từ trong hệ kinh điển Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo. Trong Đạo đức kinh của Lão giáo ta thấy nói Tri túc giả phú (người sống biết đủ thì mới thành người giàu có), Tri túc bất nhục (người sống biết đủ thì không có sự nhục nhã, lòn cúi vì họ tự do không lệ thuộc bất kỳ ai), Trong Nho giáo, ta thấy có đề cập đến biết sống đủ ít ham muốn: “Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc”, nghĩa là biết đủ với ý thức sáng tỏ thì lòng thảnh thơi biết sống đủ. Đợi cho có đủ với khao khát không cùng thì biết bao giờ mới đủ. Tuy nhiên, phải chăng chính Phật giáo, thiểu dục tri túc mới trở thành khái niệm quan trọng, thể nhập vào đời sống đạo, quyết định sự thành tựu giải thoát trong đời sống hướng nội tự thân, trước khi hướng ngoại cứu độ tha nhân. Nhiều kinh luận đã quy định về khái niệm này rất rõ ở Trung A hàm, Đại bát Niết bàn và A tỳ đạt ma đại tỳ bà sa luận.
Trong số kinh này, có bản Bát đại nhân giác kinh là một bản kinh được phổ biến rộng rãi ở nước ta. Kinh này đã đề cập đến nội dung một vị Bồ tát phải tuân thủ nếp sống thiểu dục tri túc ở điều giác ngộ thứ ba của tám điều giác ngộ: “Lòng không chán đủ, chỉ tìm được nhiều, tăng thêm tội ác. Bồ tát không thể thường nhớ tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp”. Khi quy định như thế, kinh này đã giới thuyết tri túc vào việc ngăn ngừa tham lam của cải của con người, cần từ bỏ. Từ giới thuyết này, các kinh về sau càng nói rõ thêm nữa như kinh Bát Niệm trong Trung A Hàm còn nói đến “đạo do vô dục, chứ chẳng phải hữu dục mà được, đạo do tri túc, chứ chẳng phải vô yểm mà được. Đó là 4 thứ: ăn, mặc, chăn màn, giường ngủ”. Ngay cả bản kinh Trung A hàm số 21 và Luận câu xá 22 cũng quy định thuyết tam nhân, ba nhân tố làm trong sạch phẩm hạnh người đệ tử Phật, trong đó có nhân tố thứ hai là hỷ túc thiểu dục, nghĩa là vui với sự việc mình đang có mà lòng không mong cầu gì thêm ngoài khả năng của mình. Hai nhân tố còn lại là áo quần, ăn uống, ngọa cụ và giường chiếu.
Với những nội dung quy định về đời sống thiểu dục tri túc như các bản kinh quy định, các Thiền sư và Phật tử Việt Nam đã vận dụng để đối diện và xử lý các vấn đề khủng hoảng chính trị, chiến tranh vệ quốc, thiên tai nạn dịch, nạn đói để đi đến thắng lợi, góp phần chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc. Huống chi triết lý sống của người Việt là “thương người như thể thương thân; một miếng khi đói bằng một gói khi no; lá lành đùm lá rách” trong lúc hoạn nạn biết đủ mà chia sẻ thì quý biết chừng nào, trở thành sức mạnh đoàn kết toàn dân.
Thiểu dục tri túc: Tư tưởng lớn của đạo Phật
Sang thời độc lập tự chủ, đến thời Lý – Trần cực thịnh như thế, giới thuyết thiểu dục tri túc càng được các nhà lãnh đạo quốc gia và Phật giáo vận dụng tối đa, mới giải quyết triệt để các vấn đề đất nước, xã hội đặt ra trước những biến cố lịch sử, khủng hoảng kinh tế, đạo đức, chính trị. Thực tế, cuối đời Lý đầu đời Trần, nước ta phải đối diện các vấn đề khủng hoảng, tình hình đất nước mỗi ngày mỗi loạn lạc do tranh dành cát cứ, địa bàn, kinh tế, tham nhũng của các thế lực khác nhau, còn dân tình đói khổ khiến Thiền sư Đạo Huệ than: “loạn lạc tứ tung, do tham ái mà tới” [1]. Những người có ưu tư đối với tiền đồ dân tộc và Phật giáo như thiền sư Trí Bảo, Tín Học, Trí Nhàn đã đưa ra biện pháp kêu gọi mọi người phải biết sống đủ, đừng để lợi nhiễm cuốn hút vào cơn lốc tham ái. Ái là nói lên khuynh hướng mang tính cá nhân chủ động. Còn nhiễm là nói đến sự tương tác giữa cá nhân và tập thể mà đôi khi bản thân không làm chủ được dẫn đến tệ nạn tham nhũng mang tính hệ thống. Biện pháp giải quyết là kêu gọi:“Có lợi có nhiễm thì Bồ tát không làm; không lợi, không nhiễm thì Bồ tát làm” nhằm cứu vãn khủng hoảng.
Kết quả, một đời sống đạo với tôn chỉ tùy duyên vui với đạo mà khởi đầu là Trần Thái Tông – vị vua đầu nhà Trần đã vâng theo lời khuyên của Quốc sư Viên Chứng thực thi đời sống đạo giữ tâm vắng lặng, sống thiểu dục tri túc, không cho các ham muốn dẫn dắt, đây chính là điều kiện cần và đủ để làm Phật ở đời. Còn Trần Nhân Tông kêu gọi mọi người hành đạo đức bỏ xan tham, đừng có cầu danh, sống cuộc sống giản dị, tiết kiệm để đối trị tham nhũng:“Dừng hết tham sân mới lảu lòng màu viên giác”, hay“Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác; Ăn rau trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay” [2].
Sống trong một xã hội loạn ly, vào những năm tháng cuối đời Lý, đầu đời Trần, giới Phật giáo phải ý thức về mình để có thái độ sống biết giữ đạo và gánh vác việc đời. Kết quả, người dân Đại Việt thời đó, biết sống tri túc, biết san sẻ với nhau chung một tấm lòng đã làm nên một thời đại Đông A hào hùng, 3 lần đánh tan quân Nguyên Mông, quốc gia trở nên giàu mạnh hùng cường trên mọi phương diện, lĩnh vực.
Theo dòng lịch sử, các vương triều Lê – Nguyễn rồi đến thời hiện đại, cả dân tộc ta với triết lý sống thương người như thể thương thân, tất cả đều là cùng sinh ra trong ý niệm con Rồng cháu Tiên cũng đã thể nhập nếp sống thiểu dục tri túc nhà Phật mà làm nên đại nghiệp qua từng giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Kết quả dân tộc ta đang sống trong thời đại mà đất nước đang phát triển vươn đến tầm cao và hội nhập toàn cầu.
Giá trị lớn nhất của nếp sống thiểu dục tri túc xóa bỏ lòng tham và làm khai mở tâm sẻ chia bố thí cho người khác. Nhìn góc độ cá nhân là mỗi người nhờ sống biết đủ mà tự hoàn thiện nhân cách cao quý, bước vào đời sống đạo thực thi giới định tuệ. Nhìn ở góc độ quốc gia dân tộc, mọi người dân sống biết đủ mà không dụng tâm tham lam, tham nhũng thì đất nước không rối loạn, dân tình không kêu van khổ đau. Hồ Chủ tịch là vị cha già của dân tộc, đã thực thi nếp sống gần dân, yêu dân không phải bằng lời nói, mà bằng cả cuộc sống của mình thể hiện qua phương châm đạo đức, triết lý hành động của Người chỉ có 8 chữ: “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.
Trong suốt cuộc đời sống vì dân, Hồ Chủ tịch lúc suy tư, huấn thị, hành động, bàn thảo, chỉ đạo việc nước, việc dân cũng đều thể hiện tinh thần:“Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Đó chính đức hạnh, phẩm hạnh mà Hồ Chủ tịch đề cao, Phật giáo cũng hết sức coi trọng, để rèn luyện Tăng Ni, Phật tử. Hồ Chủ tịch nói cần, thì Đạo Phật nói tinh tấn, bỏ mọi điều ác, làm mọi điều lành. Hồ Chủ tịch nói kiệm, Đạo Phật nói tri túc, tức là biết đủ, không tham đắm các dục. Hồ Chủ tịch nói liêm chính, Đạo Phật nói Thánh hạnh, chánh hạnh. Hồ Chủ tịch nói chí công vô tư thì Đạo Phật diễn giải tính bình đẳng giải thoát cho mỗi con người, không có sự phân biệt đối đãi. Trong tất cả các Kinh, Đức Phật đều cho rằng một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nỗi khổ là do tham lam. Vì thế Phật dạy, phương pháp đối trị lòng tham chính là sống theo hạnh thiểu dục tri túc. Một người biết sống thiểu dục tri túc là biết sẻ chia, biết bố thí cúng dường cho mọi người trong mọi hoàn cảnh tình huống, biến động xảy ra trong một môi trường sống cụ thể.
Hiện tại, ở nước ta và các nước xung quanh đang bị đại dịch COVID-19. Thời gian gần đây, nhiều tỉnh, thành, địa phương ở ta đã thực thiện giãn cách xã hội. Tất nhiên, đời sống kinh tế cũng như các hoạt động khác đều bị tác động không nhỏ. Nhà nước kêu gọi mọi người dân phòng hộ bằng cách thực hiện khuyến cáo 5K của Bộ Y tế, bên cạnh khuyến cáo mọi người dân, mọi doanh nghiệp, cơ quan đoàn thể, hội đoàn phát huy tinh thần truyền thống sẻ chia, đóng góp quỹ vaccine do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Thực tế, toàn dân còn làm nhiều hơn những gì ta mong đợi, đã xuất hiện nhiều tổ chức, cá nhân nêu gương tinh thần sống biết đủ, giảm thiểu các yêu cầu về ăn, mặc, ngủ để sẻ chia phần tích lũy, dành dụm của mình mà ủng hộ cho người nghèo, người thất nghiệp. Nhiều cây gạo ATM, nhiều siêu thị nhỏ không đồng mới tạo dựng đầu tư để phục vụ cho những người cách ly yên tâm chữa bệnh.
Cái ăn, mặc, ở là ba vấn đề nền tảng của mọi người. Chính nhờ thái độ biết sống đủ mà những vùng cách ly, người dân vẫn thấy ấm lòng khi đồng bào ta san sẻ thức ăn, vật dụng, chỗ ở tiện nghi đầy đủ. Nhiều bữa cơm miễn phí được các nhóm thiện nguyện đi phát khắp các nẻo đường, nhiều đợt từ thiện vào tận khu phố, ngõ hẹp để cứu trợ. Như vậy, nếu là người đệ tử Phật thì càng thấm thía lời dạy của Đức Phật về một đời sống giản đơn, luôn ý thức về Tam thường bất túc, nghĩa là 3 việc ăn, mặc, ngủ không dư tràn bờ, phóng dật. Sống với ý niệm xả ly là buông xả, không đắm nhiễm 5 món lợi dưỡng: danh, sắc, tài, thực, thùy ở đời thì nghịch duyên nào cũng vượt qua bởi các nhu cầu về sự tồn tại. Nhờ biết sống đủ mà ai cũng có thể phát tâm bố thí, cúng dường để tích lũy phước đức cho đời này và đời sau.
Lời Phật dạy về thiểu dục tri túc
Có điều, chúng ta thường nghe nói đến phúc điền (ruộng phúc), tức là Tam bảo – Phật, Pháp, Tăng mà chúng ta phát tâm cúng dường. Nghe nói đến ân điền (ruộng ân nghĩa), tức là cha me, thầy giáo mà chúng ta quan tâm, kính trọng, săn sóc mọi mặt. Nhưng chúng ta rất ít nghe nói đến bi điền (ruộng bi), là đông đảo những người nghèo khổ, bệnh tật trong xã hội. Phật từng nói: “Ai săn sóc người ốm, tức cũng như săn sóc Phật”. Người đau ốm, người nghèo hiện nay trong mùa đại dịch COVID-19 này cũng khá nhiều. Với tinh thần biết sống thiểu dục tri túc tức là biết sống sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho bệnh nhân và cho những người xung quanh. Nói theo triết lý sống của người Việt là trong những hoàn cảnh khó khăn thì phải biết “Liệu cơm gắp mắm, Giàu cơm thịt, khó cơm rau hay Một miếng khi đói bằng một gói khi no” thì lúc nào cũng thấy bình an và hạnh phúc.
Như vậy, một người biết sống thiểu dục tri túc là biết sống bố thí, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác trên mọi mặt. Bố thí có nhiều loại: tài thí là giúp đỡ người thiếu thốn bằng của cải vật chất. Pháp thí là giảng pháp cho người chưa được nghe biết Phật pháp, biết điều thiện, điều phải, điều hay, đẹp mình học được từ Phật pháp chia sẻ cho người khác cùng biết và được lợi như mình. Vô úy thí là bảo vệ, an ủi, che chở những người bất hạnh, gặp nạn, thế cô, đó là bố thí sự không sợ hãi. Tùy hỷ thí, là chia sẻ niềm vui của người khác, đó cũng là hạnh tùy hỷ, sẵn sàng chia sẻ niềm vui cho tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Như vậy, tùy theo khả năng mỗi người mà ta phát tâm bố thí theo sở nguyện.
Cho nên mục đích cao cả của người thực hành hạnh sống thiểu dục tri túc là cơ sở ngọn nguồn để phát tâm thực hành hạnh nguyện bố thí ba la mật mà chư Phật và Bồ tát từng làm để cứu độ chúng sinh. Bản Sớ giải tập Cariya Pitaka đã diễn giải công hạnh thực hành hạnh nguyện bố thí thật cao đẹp. Phật dạy rằng khi bố thí thức ăn, vị Bồ tát cầu mong cho người mình giúp đỡ được sống thọ, có dung sắc đẹp đẽ, được hạnh phúc, sức khoẻ, trí tuệ, và quả Thánh cao nhất là Niết bàn. Khi bố thí thức uống, vị Bồ tát cầu chúc cho người được mình bố thí không còn thèm khát dục vọng. Khi bố thí quần áo, vị Bồ tát cầu chúc cho người được mình bố thí, có được hạnh tàm và quý, biết xấu hổ và sợ hãi khi phạm tội lỗi, khi bố thí mùi vị, vị Bồ tát cầu chúc cho người mình giúp đỡ có được hương thơm của giới đức, khi bố thí vòng hoa và hương liệu, vị Bồ tát cầu chúc cho người mình giúp đỡ có được những giới hạnh của chư Phật.
Khi bố thí chỗ ngồi, vị Bồ tát cầu chúc cho người mình giúp đỡ đạt tới tọa vị Giác ngộ vô lượng; khi bố thí nơi ở, vị Bồ tát cầu mong làm nơi y chỉ nương tựa của thế gian; khi bố thí ánh sáng, cầu mong có được con mắt: con mắt thịt (nhục nhãn), mắt trí tuệ (tuệ nhãn), con mắt chư Thiên (Thiên nhãn), con mắt của Phật pháp (Phật nhãn), con mắt thấy biết tất cả (chánh biến tri), cầu mong có được thân sắc tỏa sáng hào quang của Phật, có được tiếng nói dịu ngọt như tiếng nói của Phạm Thiên, có được hương thơm tỏa ra làm mọi người ưa thích, bố thí thuốc men để cầu chứng được quả Niết bàn bất tử, giải phóng nô lệ để cho mọi người thoát khỏi tù ngục của dục vọng, tự nguyện xuất gia, không có con cái để nuôi dưỡng nơi mình tấm lòng người cha hiền đối với mọi người, tự mình không có vợ để trở thành đấng Thế tôn, từ bỏ vương quốc thế gian để cầu có được vương quốc của Chánh pháp.
Rõ ràng, với tất cả hạnh nguyện như trên của một người sống theo lý tưởng Bồ tát, thực hành hạnh bố thí Ba la mật là đồng nghĩa thiết lập một đời sống hạnh phúc thực sự. Nền tảng của cuộc sống hạnh phúc là bắt đầu từ việc nhận thức và thực hành nếp sống biết sống đủ, tức là thiểu dục tri túc. Khi Đức Phật sắp nhập Niết bàn, Thế Tôn vẫn còn di huấn các thầy Tỳ kheo phải biết sống thiểu dục tri túc, biết phòng hộ các căn, tiết độ trong ăn uống. Đó là nền tảng để giữ đạo. Có giữ đạo mới có trí tuệ làm sự nghiệp mà kinh Bát đại nhân giác quy định về người học đạo phải biết sống đủ, tri túc mọi phương diện:“Lòng không chán đủ, chỉ tìm được nhiều, tăng thêm tội ác. Bồ tát không thể thường nhớ tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp”.
Thời đại hôm nay là thời đại công nghệ 4.0, nhất là trong mùa đại dịch COVID-19, mọi người dân Việt, dù đang sống ở trong nước hay nước ngoài đều nhận thức tinh thần sống thiểu dục tri túc là sống biết đủ, là điều hạnh phúc nhất. Hạnh phúc đó phải được hóa hiện bằng lời nói, tức là bằng sự tuyên truyền cổ động sẻ chia khuyến cáo 5K của Bộ Y tế, mỗi người dân là một chiến sĩ, một gia đình là một pháo đài chống dịch trên mọi phương diện truyền thông. Về thân thì phải hành động cụ thể, sống biết đủ, biết tiết kiệm, biết san sẻ khó khăn cho đồng bào nghèo khó, bệnh tật. Về ý thì suy tư tìm ra giải pháp hay nhất sẻ chia cộng đồng để vượt qua nạn dịch.
Có như vậy, nếp sống thiểu dục tri túc mà Phật tuyên thuyết giáo hóa chúng ta góp phần đem lại sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người dân Việt trong thời gian chống đại dịch đang hoành hoành. Mỗi khi thân an thì tâm mới yên. Khi thân và tâm an ổn, thì tuệ giác mới khai mở. Có tuệ giác thì mới có trí tuệ để làm chủ nhân ông của thời đại công nghệ 4.0, mang lại tất cả giá trị hạnh phúc cao nhất cho con người thực tại, bây giờ và tại đây.
Chú thích:
[1] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb TP. HCM, 2002, tr.576.
[2] Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Quyển thượng, Nxb. KHXH, 1988, tr.505.