Kinh Phật

Sự gia trì của Đức Phật Quan Âm

Thứ năm, 23/09/2021 11:11

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào. Nhưng thâm nghĩa của Phổ Môn là tất cả mọi người trong thế gian này ai ai cũng đều có Đức Phật Quan Thế Âm ở trong tâm của họ.

Quán Thế Âm Bồ Tát là huynh đệ của chúng ta

Vì thế nếu biết lắng nghe tiếng âm thanh huyền diệu đó thì ai ai cũng đều có cả. Quan là xem xét, Thế Âm là âm thanh của cuộc đời cho nên Quan Thế Âm là xem xét âm thanh của thế gian. Nếu hiểu theo nghĩa thông thường của nhân gian thì Đức Quan Thế Âm tu hạnh từ bi cho nên ngài có thể lắng nghe tiếng kêu than của chúng sinh mà hiện thân để hóa độ. Nhưng mục đích tu học phẩm Phổ Môn là học cách giữ Diệu Âm ở lại trong cõi đất tâm của mình. Vì cõi đất tâm của chúng sinh chất đầy phiền não mê lầm nên nếu biết giữ Diệu Âm, biết lắng nghe tiếng nói thanh tịnh nhiệm mầu thì cõi đất tâm Ta Bà đó sẽ được trang nghiêm, đẹp đẽ, thanh tịnh và tự tại hơn.Khi chúng sinh nghe phẩm Phổ Môn này mà chính mình nhận thức rằng mỗi người đều có Diệu Âm, Quan Thế Âm trong họ thì đó chính là sức thần thông, đạo nghiệp tự tại bất khả tư nghì.

Phật pháp thì rộng lớn cao thâm nhưng vẫn có một cánh cửa phổ thông (Phổ Môn) cho những ai muốn phát triển tiềm năng của mình để trở thành một vị Phật và cánh cửa phổ thông này đưa đến kết quả viên mãn được biểu tượng hóa bằng Đức Phật Quan Thế Âm tức là sự nhân cách hóa phẩm chất từ bi và trí tuệ của đức Phật. Trong Phật giáo, từ bi và trí tuệ được xem là hai thành tố của một nhân cách giác ngộ. Trí tuệ sinh khởi nhờ từ bi và từ bi bắt nguồn từ trí tuệ, tuy hai nhưng mà một tức bất khả ly.

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân ra đời cứu độ nhân sinh

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân ra đời cứu độ nhân sinh

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT PHỔ MÔN

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Vô Tận Ý từ tòa đứng dậy, bày vai bên phải, chắp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ-tát do nhân duyên gì tên Quán Thế Âm?”

Phật đáp: Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh chịu các khổ não, nhất tâm xưng danh hiệu Quán Thế Âm. Bồ- tát tức thời quan sát âm thanh, khiến được giải thoát.

Trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, dù vào lửa lớn, lửa không thể cháy, do sức oai thần của Bồ-tát vậy.

Bị nước lũ trôi, niệm tên Bồ-tát, liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh tìm cầu vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu và các vật báu, vào trong biển lớn, giả sử gió bão thổi dạt ghe thuyền vào nước La-sát, dù chỉ một người niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, tất cả đều được giải thoát tai nạn ác quỷ La-sát. Vì nhân duyên ấy tên Quán Thế Âm.

Sắp bị giết hại, niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, dao gậy kẻ kia liền gãy từng đoạn, mà được giải thoát.

Ba ngàn đại thiên thế giới tràn đầy Dạ-xoa La sát, muốn đến não hại, nghe người xưng danh Quán thế Âm Bồ-tát. Tức thời ác quỷ không còn mắt ác nhìn ngó huống chi làm hại.

Có tội không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, nếu niệm danh hiệu Quán thế Âm Bồ-tát, liền được giải thoát.

Ba ngàn đại thiên thế giới tràn đầy giặc cướp, có một thương chủ dắt các lái buôn, rất nhiều của báu, đi qua đường hiểm. Một người lên tiếng: “Anh em chớ sợ, cứ một lòng nệm Quán Thế Âm Bồ-tát. Ngài có khả năng thí không sợ hãi. Chúng ta xưng danh sẽ được thoát nạn”. Những người lái buôn đồng thanh: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ- tát”, liền được giải thoát".

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm đại Bồ-tát sức lực oai thần hùng mạnh như thế!

Nếu có chúng sinh nặng lòng dâm dục, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, liền được thanh tịnh.

Nếu nhiều nóng giận, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, liền được mát mẻ.

Nếu nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, liền được trí tuệ.

Này Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát đại oai thần lực, lợi ích như thế, cho nên chúng sanh phải hằng nhớ tưởng.

Nếu có người nữ muốn cầu con trai, lễ bái cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, liến sinh con trai phước đức trí tuệ. Muốn cầu con gái, liền sinh con gái tướng mạo xinh đẹp, đoan chính đáng kính bởi vì kiếp xưa đã trồng cội phước.

Này Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát sức thần như thế!

Cung kính lễ bái Bồ-tát Quán Thế Âm, phước đức không cùng. Cho nên chúng sinh cần phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát.

Này Vô tận Ý! Thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ-tát, trọn đời cúng dường ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang, công đức nhiều chăng?

Vô Tận Ý bạch: “Thế Tôn! Rất nhiều!”

Phật nói: “Trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, dù chỉ một thời lễ bái cúng dường, phúc đức hai người bằng nhau không khác, trăm ngàn ức kiếp cũng không cùng tận.

Này Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, được vô lượng vô biên phước lợi như thế”.

Vô Tận Ý bạch: “Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ-tát làm thế nào đi khắp thế giới Sa Bà? Làm thế nào vì chúng sinh nói pháp? Năng lực phương tiện việc đó thế nào?”

Này Vô Tận Ý thiện nam tử! Trong các quốc độ, ai cần thân Phật, Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Bích Chi Phật, Bồ-tát liền hiện thân Bích Chi Phật để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Thanh-văn, Bồ-tát liền hiện thân Thanh-văn để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Phạm Vương, Bồ-tát liền hiện thân Phạm Vương để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Đế Thích, Bồ-tát liền hiện thân Đế Thích để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Tự Tại Thiên, Bồ-tát liền hiện thân Tự Tại Thiên để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Đại Tự Tại Thiên, Bồ-tát liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Thiên Đại Tướng Quân, Bồ-tát liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Tỳ Sa Môn, Bồ-tát liền hiện thân Tỳ Sa Môn để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân tiểu vương, Bồ-tát liền hiện thân tiểu vương để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân trưởng giả, Bồ-tát liền hiện thân trưởng giả để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân tể quan, Bồ- tát liền hiện thân tể quan để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Bà-la-môn, Bồ-tát liền hiện thân Bà-la-môn để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Bồ-tát liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để vì nói pháp, khiến được nói thoát.

Cần thân phụ nữ, Bồ-tát liền hiện thân phụ nữ để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân đồng nam đồng nữ, Bồ- tát liền hiện thân đồng nam đồng nữ để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân, Bồ-tát đều hiện thân như họ để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Cần thân Chấp Kim Cương thần, Bồ-tát liền hiện Chấp Kim Cương thần để vì nói pháp, khiến được độ thoát.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát thành tựu công đức rộng lớn như thế. Đủ thứ thân hình, khắp các cõi nước, cứu độ chúng sinh. Vì vậy các ông phải nên siêng năng cung kính cúng dường. Bồ-tát Quán Thế Âm hằng cứu những tai nạn nguy cấp, khiến hết sợ hãi, cho nên cõi Sa Bà gọi ngài là bậc Thí Vô Úy.

Vô Tận Ý bạch: “Thế Tôn! Con nay xin cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm”. Liền cởi chuỗi ngọc nơi cổ giá trị trăm nghìn lượng vàng, dâng cúng, thưa rằng: “Xin ngài vui lòng nhận chuỗi ngọc trân bảo pháp thí này”.

Bồ-tát Quán Thế Âm từ chối. Vô Tận Ý bạch: “Xin ngài thương xót nhận chuỗi ngọc này”.

Bấy giờ Phật bảo Bồ- tát Quán Thế Âm: “Ông hãy thương xót Bồ-tát Vô Tận Ý và bốn chúng, trờì, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân,… mà nhận chuỗi ngọc”.

Quán Thế Âm Bồ-tát vì thương bốn chúng, trời, rồng… liền nhận chuỗi ngọc, chia làm 2 phần: Một phần cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần cúng dường pháp đức Đa Bảo.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ-tát đi khắp cõi Sa Bà, thần lực tự tại như thế.

Hành trạng của Bồ Tát Quan Thế Âm qua các kinh điển

Bấy giờ Vô Tận Ý Bồ- tát dùng kệ tuyên lại nghĩa trên:

Thế Tôn đủ diệu tướng

Con nay lại xin hỏi

Phật tử nhân duyên gì

Tên là Quán Thế Âm?

 

Đấng đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp Vô Tận Ý:

Lắng nghe hạnh Quán Âm,

Khéo ứng các quốc độ,

Thệ rộng sâu như biển,

Nhiều kiếp khó nghĩ bàn,

Hầu nhiều ngàn đức Phật,

Phát nguyện lớn thanh tịnh,

Ta vì ông lược nói:

Nghe tên và thấy thân

Tâm niệm không luống uổng

Hay diệt khổ các cõi.

 

Dù bị kẻ manh tâm

Xô rớt hầm lửa lớn,

Do sức niệm Quán Âm,

Hầm lửa biến thành đầm.

 

Hoặc trôi dạt biển lớn,

Các nạn quỷ cá rồng,

Do sức niệm Quán Âm,

Sóng lớn không thể chìm.

 

Hoặc từ đỉnh Tu-di

Bị người xô ngã xuống,

Do sức niệm Quán Âm,

Như mặt trời trên không

 

Hoặc bị người ác đuổi,

Rớt xuống núi kim cương,

Do sức niệm Quán Âm,

Chẳng tốn một mảy long.

 

Hoặc gặp giặc oán vây

Đều cầm dao toan hại,

Do sức niệm Quán Âm,

Cùng nhau khởi từ tâm.

 

Hoặc bị khổ nạn vua

Hành hình, mạng sắp mất,

Do sức niệm Quán Âm,

Đao liền gãy từng đoạn.

 

Hoặc tù giam xiềng xích,

Tay chân bị gông cùm,

Do sức niệm Quán Âm,

Tức thời được giải thoát.

 

Nguyền rủa, các thuốc độc,

Muốn làm hại thân mạng,

Do sức niệm Quán Âm,

Lại trở về người ấy.

 

Hoặc gặp ác La-sát,

Rồng độc, các quỷ dữ,

Do sức niệm Quán Âm,

Tức thời không dám hại.

 

Hoặc thú dữ vây quanh,

Nanh vuốt nhọn đang sợ,

Do sức niệm Quán Âm,

Chúng vội vàng bỏ chạy.

 

Rắn độc và bọ cạp,

Hơi độc khói lửa đốt,

Do sức niệm Quán Âm,

Theo tiếng tự bỏ đi.

 

Mây chớp sấm sét nổ,

Xối mưa đá mưa rào,

Do sức niệm Quán Âm,

Liền được trời quang tạnh.

 

Chúng sinh bị khốn ách,

Vô lượng khổ bức thân,

Sức diệu trí Quán Âm,

Hay cứu thế gian thoát.

 

Đầy đủ sức thần thông,

Rộng tu trí phương tiện,

Khắp mười phương cõi nước,

Nơi nào cũng hiện thân.

 

Các loài trong đường ác,

Địa ngục, quỷ, súc sinh,

Khổ sanh già bệnh chết,

Dần dần khiến dứt hết.

 

Chân quán, thanh tịnh quán

Quảng đại, trí tuệ quán,

Bị quán và Từ quán,

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

 

Trí thanh tịnh giải thoát,

Tuệ sáng phá tối tăm,

Hay diệt nạn gió lửa,

Soi chiếu khắp thế gian.

 

Bi thể răn như sấm,

Ý từ diệu dường mây,

Mưa pháp vị cam lồ,

Dập tắt lửa phiền não.

 

Kiện tụng đến cửa quan,

Trong quân trận sợ hãi,

Do sức niệm Quán Âm,

Bao oán thù đều giải.

 

Diệu Âm, Quán Thế Âm,

Phạm Âm, Hải Triều Âm,

Tiếng thế gian khôn sánh,

Vì thế nên thường niệm,

Niệm niệm chớ sinh nghi.

 

Quán Âm bậc tịnh thánh,

Chính là nơi nương tựa,

Cho sinh già bệnh chết,

Đủ tất cả công đức,

Mắt từ nhìn chúng sinh.

Phước tụ như biển lớn,

Cho nên phải đỉnh lễ.

Bấy giờ Trì Địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đến trước Phật bạch: “Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào được nghe phẩm Phổ Môn thị hiện, đạo nghiệp tự tại, sức thần thông của Bồ-tát Quán Âm, phải biết công đức người đó không ít”.

Phật nói phẩm Phổ Môn xong cho chúng có tám vạn bốn ngàn chúng sinh phát tâm Vô-Thượng Bồ-đề.

Bồ Tát Quan Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ.

Bồ Tát Quan Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ.

ĐẠI Ý PHẨM PHỔ MÔN

Kinh Pháp Hoa là bản di chúc Phật giao phó gia nghiệp cho những cùng tử đã biết trở về.

Như Lai chỉ do một đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến cho chúng sinh. Phật tri kiến chính là nhất chân pháp giới Như Lai Tạng tâm.

Ngài Hám Sơn ước theo ba chủng ý sinh thân ở kinh Lăng Già để giải thích minh tỏ thứ lớp chứng nhập Phật tri kiến ở kinh Pháp Hoa.

Như thế ba phẩm Dược Vương, Diệu Âm và Phổ Môn thứ lớp nói về ba chủng ý sinh thân tức là phần chứng nhập của kinh Pháp Hoa. Phẩm Phổ Môn là hoàn toàn diệu khế Phật tâm, viên chiếu pháp giới. Bản hoài xuất thế của đức Thích Ca tới đây là viên mãn.

Như Lai Tạng mê chuyển thành A-lại-da thức. Vô Tận Ý Bồ-tát nêu biểu tạng thức đã chuyển trở về thành trí nên đứng thỉnh hỏi. Phổ Môn là thần lực khó nghĩ bàn của 5 thức trước, nay gọi là thành sở tác trí. Đức Quán Thế Âm nương đây để hiện thân khắp pháp giới.

Hỏi tên để tìm hiểu thực chất nên đức Thế Tôn dùng những sự việc hiển nhiên để đáp. Bồ-tát quán tự tính viên thông, thấy hết thảy chúng sinh đồng thể bình đẳng. Chúng sinh ở trong tâm Bồ-tát nên không khổ nào Bồ-tát không biết. Nhưng phải đợi chúng sinh, niệm danh hiệu, nghĩa là chịu quay về với Bồ-tát, thì thần lực mới có thể gia hộ. Điều kiện duy nhất là phải cung kính, nghĩa là tin chắc có Bồ-tát thật, ở ngay tâm mình, có khả năng cứu mình, nên thiết tha một lòng thành kính niệm. Kinh nói: Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn.

Mười bốn thí vô úy được nêu rõ nguyên nhân trong kinh Lăng Nghiêm. Chúng sinh thấy nhờ ánh sáng của lửa, nghe nhờ làn song âm ba nên có nghiệp báo phải chịu những nạn nước lửa. Nay Bồ-tát đã tiêu căn trần nên có thể cứu thoát.

Vì đã đoạn diệt vong tưởng, tâm không sát hại nên có thể khiến chúng sinh thoát nạn ác quỷ.

Lại vì căn trần không còn đối địch nên có thể cứu được nạn đao binh.

Văn tính linh minh, tuệ tính phát quang, diệt hết u ám nên có thể cứu được các nạn cõi âm quấy phá.

Đã lìa trần lụy nên có thể khiến gông cùm, xiềng xích đứt đoạn v.v…

Vì cùng Như Lai cùng một từ lực, khiến Bồ-tát thân thành 32 diệu ứng vào các quốc độ. 32 ứng thân hiển rõ chủng loại câu sinh vô hành tác ý sinh thân (Kinh Lăng Già). Hiện thân bốn thành sáu phàm mà không nói đến tam đồ vì khổ thú chẳng phải chỗ nói pháp, nhưng không phải không cứu (xem văn kệ trùng tụng).

Phật khuyên cúng dường. Vô Tận Ý dâng ngọc nói là pháp thí, nghĩa là vì tất cả chúng sinh mà cúng dường. Đức Quán Âm từ chối để nêu biểu pháp tính vốn không thọ xả.

Mẹ tôi và câu niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”

Đức Phật khuyên thọ nêu biểu tính chân như không lập một pháp nhưng công dụng không bỏ một phước nào không làm. Bồ-tát nhận rồi chuyển dâng lên hai đức Thế Tôn nêu biểu đem công đức của chúng sinh hồi hướng về Chân như và Phật đạo.

Chân quán: quan sát thấy chúng sinh những tướng sai khác đều hư vọng. Tất cả đều quy về nhất chân pháp giới.

Thanh tịnh quán: quán thấy chúng sinh tâm tính bản lai thanh tịnh, không các tạp nhiễm.

Trí tuệ quán: Bồ-tát dùng đại trí tuệ chiếu soi, giúp chúng sinh phá si ám.

Bi quán: Đem tâm thương sót quan sát chúng sinh, không khổ nào không cứu.

Từ quán: Đem tâm từ hòa quan sát chúng sinh, hằng mong ban vui.

Dùng năm phép quán này hằng chiếu chúng sinh nên nói là: "Ngàn mắt chiếu soi ngàn tay hộ trì", chứng tỏ Bồ-tát chưa từng một niệm xả bỏ chúng sinh.

Trí thanh tịnh giải thoát: Hán văn là "Vô cấu thanh tịnh quang". Vô cấu tức Giải thoát đức. Thanh tịnh tức Pháp thân đức. Quang tức Bát nhã đức. Vì mê tính đức dụng này phổ chiếu thế gian nên hàng phục được tam tai và tám nạn.

Bi thể răn như sấm: Hán văn "Bi thể giới lôi chấn" - Lấy trí tuệ làm thân, lấy Bi làm thể. Đây là thân nghiệp của Bồ-tát. Mỗi khi cần răn dạy chúng sinh thì mạnh mẽ như sấm sét. Nhưng bản tâm (ý nghiệp) thì "từ ý diệu đại vân", mát mẻ mềm dịu như mây che trùm cả vũ trụ. Khẩu nghiệp của ngài "chú cam lồ pháp vũ" luôn luôn mưa pháp, tưới tắt lò lửa phiền não đang nung nấu muôn loài.

Thuyết pháp biện tài gọi là Diệu Âm. Tầm thanh cứu khổ là Quán Thế Âm. Không vướng mắc bận lòng gì đến khen chê là Phạm Âm. Ứng cảm chẳng lỡ thời là Hải Triều Âm.

Ba mươi hai ứng thân thuyết pháp và các thần chú bất tu nghì cứu khổ ban vui là năng lực Diệu Âm. Thí vô úy trong tám nạn là năng lực Quán Thế Âm. Trừ ba độc, phá xan tham là năng lực Phạm Âm. Tất cả hy cầu cảm ứng không lỡ thời là năng lực Hải Triếu Âm.

Phần kết nói về công đức nghe phẩm này. Chỉ nghe còn được thế huống chi thọ trì thì việc tu chứng cầm chắc trong tay.

Trì Địa Bồ-tát đứng ra kết phần công đức vì Quán Âm chứng được Pháp-thân, tận nhất chân địa và hay khiến chúng sinh trụ trì ở đại địa tâm.

Nghiệp tự tại: Vô tác diệu dụng ứng cảm chúng sinh.

Phổ môn thị hiện: Hiện thân khắp các cửa (vào khắp muôn loài).

Thần thông lực: Khổ nào cũng cứu được.

Đức Quán Âm đã chứng Diệu giác. Tuy ở quả vị mà không xả nhân hạnh. Đã thành Phật mà vẫn làm việc Bồ-tát, hiện thân nhiều như mây ở khắp pháp giới để tế độ chúng sinh. Phẩm Phổ Môn nêu tỏ những công đức để chứng nghiệm nhập Phật tri kiến, thành Phật quả Bồ-đề. Bồ-tát Quán Thế Âm đã chứng quả Bồ-đề nên ai nghe phẩm này đều phát tâm vô thượng để tiến tới diệu hạnh.

Rút ở Pháp Hoa Thông Nghĩa của Hám Sơn đại sư pháp húy Đức Thanh.

(Nhà xuất bản Tôn giáo

PL: 2544-2000)

loading...