Kiến thức

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng

Chủ nhật, 25/11/2023 04:52

Hòa thượng Tuyên Hóa hết sức coi trọng Kinh này, Ngài dạy: “Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ “Hiếu Kinh” của Phật giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.”

Audio

Rất nhiều người có thiện duyên gặp được Kinh này, hoặc phát tâm trì tụng, hoặc trì niệm thánh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng đều được tiêu tai chướng nghiệp, phước tăng, trí huệ và một số khả năng thần thông được khai mở…Xin trích dẫn những câu chuyện có thật, trong sách “Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục”, về sự cảm ứng nhiệm mầu của việc trì tụng Kinh Địa Tạng và trì niệm Thánh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cho người hữu duyên, nguyện hết thảy cùng lìa khổ được vui, cùng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ!

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Lễ bái danh hiệu dễ sinh con

Vương Bích Bàn cư sĩ có trưởng nữ gả cho nhà họ Trương. Năm trước theo chồng đi Hà Nam, làm việc ở mỏ than khi đang có mang. Cư sĩ dạy con lấy một tờ giấy màu vàng, trên viết “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” đặt trên bàn thờ. Hàng ngày thắp hương lễ bái sẽ được Bồ Tát gia bị.

Con gái nghe theo lời Cha, quả nhiên khi sinh đẻ thật dễ dàng. Dù ở nơi biên địa, không có bác sĩ đỡ đẻ, nhưng không chút đau đớn gì. Hai năm sau lại có mang, cô cũng làm theo như vậy. Trước sau sanh được một trai một gái, đều khỏe mạnh, diện mạo khôi ngô, trí tuệ thông minh và hiền hòa. Mọi người chúng tôi đều thấy sự việc này.

Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ “Hiếu Kinh” của Phật giáo

Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ “Hiếu Kinh” của Phật giáo

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Khỏi bệnh tăng phước

Mùa hạ 18 năm về trước, con tôi vì bệnh nặng nên đến Lư Sơn để an dưỡng. Lúc đó Lương Bích Viên cư sĩ cũng ở cùng. Thấy cháu nằm trên giường 4 tháng chẳng thể dậy, nên kể chuyện về sự linh ứng của kinh Kinh Địa Tạng cho cháu nghe và khuyên cháu đọc Kinh Địa Tạng để cầu khỏi bệnh. Cháu nghe lời làm theo, nửa tháng sau bệnh thuyên giảm rồi không thuốc mà tự khỏi.

Sau đó con dâu có mang, năm sau sinh một con trai. Hai vợ chồng in nhiều cuốn Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục phát cho mọi người để báo ơn Phật.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Giúp mẹ khỏi bệnh

Mẹ tôi tên Trương Thị, 50 tuổi, tính tình hiền hậu. Bà thuộc lòng Chú vãng sanh và Kinh Quán Âm, trường chay đã mấy năm. Cách đây ít năm đột nhiên mẹ không đi được, hai tay vô lực, lưng còng xuống đi lại ở trong nhà phải vịn ghế. Sau hai mẹ con quy y Tam Bảo, thờ Quán Âm và Địa Tạng, sớm chiều kính lễ tụng niệm. Mẹ tuy bệnh tật nhưng cũng thời khóa hàng ngày không bỏ.

Một năm sau tôi phát tâm tụng Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để cầu cho mẹ khỏi bệnh. Vì Kinh Địa Tạng quá dài, lại vất vả về sinh nhai nên khó tụng niệm được toàn kinh. Tôi chỉ đọc Phẩm thứ mười ba, thuộc lòng đề kinh của từng phẩm một, chủ yếu là trì niệm Thánh hiệu.

Được vài tháng thì một hôm mẹ đang ngồi lăn ra bất tỉnh. Tôi hốt hoảng chắp tay chí tâm xưng niệm Thánh hiệu. Kỳ diệu thay, sau 10 câu thì mẹ tỉnh, nôn ra 2 bát nước màu đen. Sau đó mời bác sĩ khám thì họ bảo bệnh khó mà thọ được.

Hàng ngày tôi quỳ trước tượng Bồ Tát Địa Tạng, gia tăng lễ bái, cầu Bồ Tát gia bị. Một tháng sau mẹ dần dần chống gậy đi lại được. Đến nay bà đã 64, đi lại  không cần gậy, hàng ngày lễ Phật niệm Phật tinh tấn. Có bệnh hơn mười năm không nhờ thuốc thang mà tự khỏi là điều lạ h trên thế gian. Tất cả đều là sự linh ứng nơi Địa Tạng Bồ Tát mà có được. Ngài thệ nguyện sâu xa, làm lợi ích cho chúng sanh không thể kể xiết. Nếu ta thành tâm phát nguyện cầu ngài gia bị, chắc chắn sẽ được cảm ứng!

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Khỏi mù lòa

Thành Phục Sơ cư sĩ ở Thái An Cam Túc theo đạo Lão từ năm mười sáu tuổi, rất tích cực báng phá Phật pháp. Đến năm Dân Quốc thứ 16(1927) mắt bên phải bị mù. Năm 20 tuổi, mắt bên trái cũng vậy. Về sau duyên may gặp và quy y với Ấn Quang Đại Sư. Y một lòng sám hối, tu tịnh, bắt chước lập hạnh của Liễu Phàm, học pháp Tịnh Ý cải tâm.

Một thời gian sau, tuy được tâm địa sáng suốt, nhưng đôi mắt vẫn còn mù lòa. Bèn phát tâm trích máu nhờ người vẽ tượng Phật. Ngày 17 mùa đông năm Ất Hợi (Dân Quốc 24), sáng dậy lễ khóa như bình thường. Khi tụng đến chữ đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Chữ Bồ vừa đọc ra, chữ Tát còn chưa đọc  thì thấy trước mặt có một luồng hào quang chói lòa. Trong chớp mắt hai mắt sáng lại, nhìn thấy rõ mọi vật.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Lìa khổ được vui

Cư sĩ Nhạc Sư Úc ở Hà Nam, Trung Châu. Vợ mất sớm, có một con gái đã ở riêng, trong nhà chỉ còn Mẹ già. Năm Dân Quốc thứ 20( 1931) Mẹ bị xe kéo đụng chân trái bị thương, chữa mãi không khỏi. Mọi sinh hoạt ở trên giường, từ tiểu tiện, đại tiện cho đến ăn uống đều một tay cư sĩ làm. Tình cảnh kéo dài mấy năm, vất vả vô cùng, lại không làm ăn gì được, vốn liếng cũng gần cạn.

Ngày 23 tháng 1 năm 1934 Sư Khang và bạn là Trương Khế Chinh đến thăm. Thấy mẹ cư sĩ vẫn còn nằm liệt trên giường bệnh, cư sĩ tiều tụy, đầu tóc bạc phơ. Sư Khang bèn tặng cư sĩ năm đồng và cuốn Kinh Địa Tạng Bồ Tát. Tiền thì cư sĩ nhất định không chịu nhận, chỉ nhận cuốn Kinh thôi.

Từ đó cư sĩ hàng ngày chí tâm đọc Kinh Địa Tạng và xưng danh hiệu, cầu Bồ Tát gia bị cho mẹ khỏi bệnh. 5 giờ sáng ngày 29, bà chợt bảo: “Ta thấy trong người nhẹ nhõm và cảm thấy đói”. Cư sĩ vội vã vào bếp nấu mì, mẹ ăn uống rất vui vẻ, xong lại đòi ăn táo. Cư sĩ vui quá nói rằng: “Bệnh Mẹ khỏi rồi”. Mẹ nói “Không phải thế đâu, e rằng Mẹ con ta sắp vĩnh biệt đấy”. Bà nói chưa dứt câu, táo còn chưa ăn hết thì mất.

Mẹ chưa kịp liệm thì thấy Châu Đồng Sinh đến, bảo: “Đêm qua tôi nằm mơ thấy bà đến cho biết sáng nay bà đi. Trong lòng nghi hoặc nên đến đây thì quả là vậy”.

Đêm 31, linh cữu của Mẹ được an táng. Cư sĩ đau lòng khóc lóc thảm thiết. Bỗng nghe có tiếng người nói rằng: “Thôi đừng khóc thương nữa, Mẹ ngươi đã được Địa Tạng Bồ Tát tiếp dẫn rồi”. Cư sĩ mở mắt nhìn quanh, cửa đóng then cài nhưng chẳng thấy ai. Nhớ lại việc Sư Khang tặng Kinh, bèn hướng về Mẹ niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát cầu gia hộ cho Mẹ.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Được vãng sanh

Chị dâu Trương Thị tên là Thọ Thân. Sinh ra trong gia đình lương thiện, thông minh từ nhỏ. Chị ở nhà nổi tiếng là hiếu thảo. Khi đến tuổi cập kê về Giang Hạ làm dâu của Trưởng Tôn Du Đường Công. Lấy nhau được 49 ngày thì chồng chết, chị thề thủ tiết thờ chồng.

Mẹ chồng bị bệnh nặng, thuốc thang đều vô hiệu, chị cắt thịt để làm thuốc cho mẹ. Sự hiếu thảo kinh động cả quỷ thần nên mẹ chồng được tăng thọ thêm 3 năm. Họ hàng nội ngoại đều khen ngợi đức độ của chị. Có người trong hoàn cảnh đói khổ hay bệnh tật đến nhờ cũng được Trương Thị tận tâm giúp đỡ, chưa hề thoái thác. Chị sống rất là đạm bạc, đơn giản, hay giúp đõ người khác.

Tháng 5 năm Dân Quốc thứ 30 (1941) Đại Đức Hoằng Nhất Pháp Sư hoằng dương Chánh pháp. Chị dâu rủ tôi cùng đi gặp Pháp Sư và quy y Tam Bảo. Tôi vì góa bụa, nên sớm chiều bầu bạn với chị hơn mười năm.

Một hôm chị phát hiện ung thư vú, bệnh mỗi ngày càng thêm nặng. Dù đau ốm vẫn trường trai, một lòng niệm Phật cầu sinh Tây Phương. Khi chị hấp hối, đứa cháu nội chín tuổi là Tôn Thừa Kinh, bỗng nhiên thét lớn, mặt mũi tái mét. Mọi người vỗ về hỏi tại sao? Kinh đáp: “Sau lưng Bà có một người tướng mạo như Phật, cao lớn, đầu đội mũ có nhiều góc. Mình mặc áo có nhiều vải vá, tay cầm cây trượng dẫn dắt Bà nội đi”.

Do trong nhà có treo bức họa ảnh của Địa Tạng Vương Bồ Tát, mọi người mới ngỡ ra là Thịnh đức cảm được Địa Tạng Vương Bồ Tát đến tiếp dẫn bà qua Tây Phương. Qua năm ngày sau hỏa táng ở Vũ Sơn, lấy ra tro hài cốt trắng trẻo sạch sẽ, đựng vào trong hủ, hiện gửi ở núi Thanh Nguyên, hang Di Đà, để chờ chọn ngày xây tháp kỷ niệm.

Kinh Địa Tạng Linh cảm cận văn

Tả Quân Phục Hòa rất thành tín với Phật pháp. Nghe nói mẹ của Tả Quân ngày thường kính tin Phật pháp, trì kinh Địa Tạng. Lại thường chế luyện các thứ thuốc để thí cho người bệnh nghèo. Năm 24 tuổi, Bà mắc bệnh mê man, bèn bảo gia nhân lo liệu đồ chay, rước Chư Tăng đến, thành kính tụng Địa Tạng Kinh 3 ngày.

Bà thấy Địa Tạng Bồ Tát hiện ra thân Cao Tăng. Mình mặc áo cà sa, tay cầm Tích Trượng, đến bảo rằng: “Tuổi thọ của ngươi đã hết. Nhưng nghĩ đến ngươi trước đến nay có lòng thành kính Phật. Làm nhiều việc thiện, nên nay cho sống thêm mười hai năm nữa”. Từ đó bệnh khỏi, sống đến năm 36 tuổi mới êm đềm ra đi.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Cảm ứng

Cố Tồn Tín, là cháu ngoại của học giả Hứa Viên Chiêu. Năm lên hai tuổi bị chứng bệnh kết hạch. Bệnh triền miên trong ba năm, mọi danh y đều bó tay. Sau cha mẹ nó nghe lời Hứa Viên Chiêu. Đem tất cả những đồ vật yêu thích của cháu, y theo lời trong Kinh Địa Tạng, đến trước mặt Tồn Tín đọc ba lần. Đem bán các đồ vật ấy được mười đồng, rồi đem đi tạc một tượng Địa Tạng Bồ Tát, hàng ngày thành kính lễ bái.

Từ đó bệnh của Tồn Tín khỏi dần, đến nay đã ba năm mà các chứng bệnh cảm cúm lặt vặt cũng không bị. Ngày mùng 2 tháng 3 năm Dân Quốc thứ 16 (1927) tôi có dịp đến thăm ông Viên Chiêu ở Thượng Hải, để trả 138 tiền đường sá nhà cửa thì được mắt thấy tai nghe chuyện này.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Nhiệm mầu

Tháng 2 năm Dân Quốc thứ 33 (1944) vào buổi sáng tôi lên lầu Tán Mỹ lễ Phật. Tối lại đến sảnh trước, nơi Thờ Quan Âm Đại Sĩ tụng niệm danh hiệu Chư Phật Bồ Tát. Vì muốn yên tĩnh, tôi tắt đèn đứng nghiêm, chắp hai tay hướng về Phật. Miệng niệm mắt nhìn chăm chú, trong lòng thành kính tụng niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát một ngàn lần.

Sắp kết thúc tôi bỗng nhiên thấy có ánh sáng chói lòa, cách ba thước về phía bên trái tượng Quan Âm Bồ Tát. Tưởng là có người cầm đèn đi qua vườn, tôi quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Thấy mặt trăng chưa ló dạng, khuôn viên vắng tanh, không có người qua lại. Tôi tự nghĩ có lẽ mắt mình có vấn đề, nhìn về chỗ cũ ánh sáng đã tắt không thấy gì nữa.

Khi trở lại chỗ cũ tiếp tục tụng niệm, thấy ánh sáng lại nổi lên, nhưng hơi cao hơn lần trước một chút. Tôi mới nhớ ra là chỗ đó có một pho tượng của Địa Tạng Bồ Tát. Đoán chắc là ánh sáng của Bồ Tát, tôi vội gọi em tôi đến xem. Lúc đó cha tôi cũng bước vào, cùng chúng tôi xưng niệm Thánh hiệu, ánh sáng được thêm vài phút thì tắt.

Trước kia mẹ tôi nghe lời khuyên, trường trai lễ Phật hơn 10 năm. Cả gia đình không ai là không sùng tín Tam Bảo, trước sau quy y với các đại Sư: Ấn Quang, Trí Tùng và Diệu Trân. Anh em tôi có nguyện vọng hoằng pháp để làm lợi sinh. Tháng Giêng năm nay Mẹ tôi bị bệnh, cánh tay bên phải không cử động được, bước đi khó khăn. Biết là vì túc nghiệp sinh ra nên chúng tôi lại càng chăm chỉ thành tâm niệm Phật cầu gia bị.

Đêm 29, Mẹ tôi lưỡi cứng không nói năng gì được. Anh em tôi phát nguyện: Ngoài việc xưng tụng danh hiệu của Chư Phật ra, xin thành tâm trì tụng Kinh Địa Tạng Bản Nguyện, đồng thời thay Mẹ tôi sám hối tội chướng. Bệnh tình quả nhiên thấy khỏi dần.

Địa Tạng Vương Bồ Tát

Gia đình tôi nhiều người duy chỉ có Cô tôi là ăn chay trường, thành tâm kính phụng Phật giáo. Tôi tuy tin là có Phật và Bồ tát, nhưng thờ cúng chểnh mảng. Đến khi Cô tôi mất đi, thì chư vị cư sĩ trong liên xã đến giúp hộ niệm. Tôi và chư vị cư sĩ qua lại lâu ngày nên dần dần cũng kính phụng Tam Bảo.

Tịnh Hành Liên Xã ở Lục Uyển Trân có vị Chính Mông Pháp Sư. Ngài tận lực tuyên dương Phật giáo, hết lòng tán thán công đức cứu khổ độ sinh của Địa Tạng Bồ Tát. Thường khuyên các hội viên nên đọc nhiều Địa Tạng Kinh, thế nào cũng có cảm ứng. Chính Pháp Sư khởi xướng việc này, vài tháng sau quả nhiên linh ứng luôn luôn thể hiện. Nay tôi ghi lại các sự tích để chứng minh về sau sự linh cảm của Địa Tạng Bồ Tát thật không thể lường được.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng

Chuyện 1: Con dâu tôi sản hậu, thần trí rối loạn, nói năng bậy bạ đã nhiều ngày. Đông và Tây y chữa trị đều vô hiệu. Tôi vì tin Phật và nhờ Pháp Sư Chính Mộng chỉ dẫn. Bèn tập hợp các vị cư sĩ trong Tịnh Hành Liên Xã, cùng nhau tụng Địa Tạng Kinh. Mới đọc hết cuốn Thượng, bệnh con dâu tôi tự nhiên khỏi hẳn, thần trí tỉnh lại như xưa. Đọc hết cuốn Trung và Hạ, con dâu tôi thiêm thiếp ngủ ngon, bệnh tình khỏi hẳn.

Chuyện 2: Anh thợ bạc họ Tiển, mắc chứng bệnh kỳ lạ: Cổ bị sưng to, ăn uống không được, đau đớn khổ sở. Lúc nào anh cũng kêu gào rằng: “X (Tên của một cư sĩ rất thành kính Phật giáo ở bản Trấn) đang ở thiên đường, ta ở địa ngục, X mau đến cứu ta”. Người nhà của bệnh nhân đến mời một cư sĩ, cùng với các xã viên đến đọc Địa Tạng Kinh. Đọc xong bệnh nhân bỗng nói rằng: “Vừa rồi có người đến cởi dây cho tôi khỏi bị treo cổ”. Bệnh khỏi liền.

Chuyện 3: Người đàn bà họ Đỗ, bị bệnh thương hàn rất nặng. Nhà bà mời các thầy thuốc Đông và Tây y đến chữa trị, nhưng bệnh tình vẫn y nguyên. Cả gia đình Đỗ Thị đều ăn chay niệm Phật, liền phát tâm đọc Địa Tạng Kinh. Kinh đọc xong thì nhiệt độ giảm xuống, bệnh khỏi dần, rồi khỏi hẳn.

Chuyện 4: Mẹ tôi năm nay 79 tuổi, bỗng bị chứng bệnh phong. Hai chân khép lại không mở ra được, đau đớn vô cùng. Nằm trên giường bệnh mấy năm thì mất. Sau đó một đêm, tôi nằm mơ thấy Mẹ hiện về bảo: “Chân đau quá.” Tôi cũng chỉ cho là nhớ quá ra mộng nên cũng chẳng để ý. Ngày kia ở trong Liên Xã nói đến chuyện này. Chính Mộng Pháp Sư khuyên nên đọc Địa Tạng Kinh, có thể cầu xin cho tội nhân thoát khỏi khổ đau.

Tôi bèn mời một Cư sĩ cùng tụng niệm. Đến ngày thứ 6 thì nằm mơ thấy Mẹ bảo rằng: “Đã thoát khỏi khổ đau rồi.” Đến ngày thứ 7 đọc xong Kinh, tôi lại nằm mơ thấy mình tiễn Mẹ đi Tây Phương. Qua đây thì rõ rằng, oai lực của Địa Tạng Bồ Tát có thể giải thoát những đau khổ của người tại u minh. Lành thay !

Chuyện 5: Bản Trấn có người họ Đường, tên là Nhị Quan. Cả con và cháu ruột đều mắc bệnh, chữa trị mọi cách đều vô hiệu. Duyên lành được nghe Kinh Địa Tạng thần uy linh cảm, nên thành kính đọc, cả con lẫn cháu đều khỏi cả.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Siêu độ cho cha

Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 34(1945) cuộc chiến xâm lấn quân ngụy địch đang kịch liệt. Cha tôi lúc đó có việc bận ở Trấn Giang, tôi và chị cùng hầu hạ Mẹ ở Thượng Hải.  Ngày 28 tháng 4, tức là ngày 17 tháng 3 âm lịch, được điện tín từ Trấn Giang, cho biết Cha bệnh nặng. Tôi bàn với Mẹ và chị đến thăm Cha. Mẹ tôi cho rằng hiện nay giao thông bất tiện, vé xe đắt khó mua. Lại chỗ đó trộm cướp rất nhiều, đàn bà và trẻ con không nên đi. Tôi mỗi khi nhớ đến Cha thì lòng dạ rối bời trăm mối. Nên hôm sau đến bàn với chị, ở lại qua đêm, cùng với cháu ở một phòng.

Khu nhà chị đèn đóm quản lý rất nghiêm, 10 giờ là tắt điện nên chúng tôi đi ngủ sớm. Vì nhớ cha, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Về khuya đang thiu thiu ngủ, tôi thấy một đám đông đi đến ngoài cửa, thấy Cha tôi rẽ đám đông vào nhà.

Tôi đang định hỏi thì thấy Cha đã đứng sững trước giường, bảo rằng: “Thôi ta hết đời rồi, ta sắp đi đây, con có biết không?” Tôi không biết nói gì hơn, chỉ có cách nghẹn ngào an ủi rằng: “Con đã biết rồi, cha đừng buồn, sống chết có số. Thể xác của con người chẳng ai có thể duy trì được mãi. Ngoại trừ Phật lực ra, không còn cách nào giải thoát được. Thường ngày con khuyên cha niệm Phật là vì lẽ đó. Cha tuy không nghe lời, nhưng lập nguyện quy y, nhất niệm thiện ân, không phải là vô ích.”

Cha tôi mặt mày ảm đạm nói rằng: “Trễ rồi, ta sẽ cùng với mọi người này đi đây”. Nói rồi chỉ tay ra ngoài cửa, thấy những người đứng chờ bên ngoài cũng ngó vào, ý như thúc giục. Cha tôi quay ra nói với đám đông: “Mọi người đứng chờ tôi như vậy, xin chờ thêm ít phút nữa, tôi còn vài lời muốn nói với con”. Nói rồi Cha quay trở lại nói với tôi rằng: “Huệ Nhi! Cha đang cần sự đọc Kinh niệm Phật để được siêu thoát. Ta rất hối hận ngày thường không nghe lời khuyên của con. Cha đi đây, nhớ niệm Phật cầu siêu độ cho Cha”, nói rồi cất bước ra đi.

Tôi vội hỏi Cha có nhắn nhủ gì thêm không? Ông bảo: “Không có gì đáng nói nữa, hãy nhớ niệm Phật cầu siêu cho ta”, rồi hai tay bưng mặt như lau nước mắt. Tôi cũng không cầm lòng nên òa khóc. Khi ra khỏi cửa, lại dặn với theo: “Ta chờ sự cầu siêu độ của con”. Đám đông ngoài cửa có người cầm một vật như  sợi dây, quăng vào người Cha, tôi liền giơ tay nói:

“Người này là Cha tôi.” Tôi phụng Phật pháp, tự tin có thể xin Phật lực giải tội cho Cha. Cha tôi chắc không ở lâu trong cõi u minh, chỉ trong một tháng thế nào cũng sẽ được siêu thoát. Xin nể tình khoan hạn, tôi xin hậu tạ ơn huệ”. Người đó quả nhiên nới tay, cùng Cha tôi và mọi người ra đi. Mọi chuyện xảy ra đều không kinh động đến ai.

Biết chắc là Cha đã mất, tôi bèn ngồi niệm Phật hồi hướng cho Ông. Hôm sau tôi dậy sớm về Trường, bạn học giao cho tôi một bức điện tín nhận được đêm qua,. Điện tín cho hay Cha tôi đêm qua đã từ trần. Tôi tuy Quy y đã mấy năm nhưng chưa hề đọc Kinh Địa Tạng, nay vì Cha mà phát tâm trì tụng.

Đêm ngày 25 tháng 2, khi đang quỳ tụng niệm. Tôi thấy một luồng ánh sáng trực chỉ về phía Đông Bắc, dài như một dải vải, Cha tôi đang quỳ trong đó. Mới đầu chỉ một mình Cha tôi quỳ ở trong đó bái lạy, sau thấy nhiều người đến đảnh lễ. Điều lạ là ánh sáng đó đều chỉ hướng miền Đông Bắc, các phía khác thì không thấy gì.

Ngày 8 tháng 4, là ngày Thế Tôn Thánh Đản. Tôi bày cúng trái cây hoa và tụng niệm, thì thấy trong ánh sáng có nhiều người lễ bái. Vào tối, theo thường lệ tôi tụng niệm xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Chợt thấy Ngài hiện ra tay cầm Trượng cắm xuống đất, ánh sáng tỏa ra thành một khu vực rộng lớn.

Trong ánh sáng này có rất nhiều người vui vẻ, có kẻ chạy tán loạn. Cũng có kẻ bay bổng lên trời, như được niềm vui lớn vậy. Tôi nhìn kỹ mà chẳng thấy Cha đâu. Tụng Kinh Địa Tạng và xưng Thánh hiệu xong, tôi chăm chú nhìn kỹ thì không còn thấy ánh sáng ở Đông Bắc nữa. Trong lòng cảm ơn và nghĩ thầm: Cha tôi chắc nhờ ơn Phật đã được siêu thoát rồi. Phật ân rộng sâu, Phật lực hoằng đại, thật không thể lường được.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Cảm ứng Bồ Tát

Tháng 7 mùa Thu năm Bính Tuất, chị tôi bị bệnh thương hàn rất nặng. Tất cả các thầy thuốc đều bó tay. Tôi thường tụng Kinh Địa Tạng nên lúc về thăm Chị liền khuyên chị phát tâm thực hành những việc lành như trong kinh đã ghi: “Nếu đem đồ quý báu của người bệnh, như trang sức, quần áo… bán để lấy tiền tạc tượng hay vẽ hình Địa Tạng Bồ Tát. Hoặc phát nguyện nhờ người thay thế bố thí tiền bạc, quyên góp ít nhiều để đúc tượng Địa Tạng Bồ Tát…Nếu người nghiệp báo đáng lẽ phải ốm đau, nhưng nhờ công đức kể trên, bệnh sẽ khỏi, được tăng thọ.

Trong lúc tuyệt vọng, chị cho người nhà làm ngay, đồng thời liên tục trì niệm Thánh hiệu. Ngay hôm sau cơn nóng sốt thuyên giảm, tỉnh táo. Bệnh tình mười phần giảm được bảy tám, khiến hết thảy người thân sơ ngạc nhiên, đều cho là lạ. Bảy ngày sau, vào lúc sáng sớm. Chị thấy một Lão Tăng, tay cầm chiếc gậy thiếc đứng bên cạnh giường. Chị  chắp tay kính cẩn, thì không thấy đâu nữa.

Từ đó các bệnh chân tay bủn rủn, tinh thần mỏi mệt khỏi hẳn. Mới hay là Bồ Tát che chở cho lục đạo, phổ độ chúng sinh. Thần thông và uy đức thật không thể nghĩ bàn. Sau khi khỏi bệnh, chị lập chí tu tịnh nghiệp. Ngày đêm xưng danh Bồ Tát, hàng tháng trai giới lục chay. Gặp ai cũng khuyên răn và nhờ tôi viết dùm Linh Cảm Ký cho mọi người được biết. Để đồng sinh chánh tín, đồng trồng căn lành. ( Khương Trí Thanh kính ghi)

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng: Bồ Tát hiện thân

Tôi trước kia vì bị bệnh nên xuất gia, từ đó đến nay chưa ốm nặng lần nào. Đôi lúc có khi tứ đại không điều hòa, nghỉ ngồi tu chỉ quán thì hết bệnh. Mùa Xuân năm nay, năm Dân Quốc thứ 36 (1947), tôi đến Hàng Châu hành hương. Trên thuyền đi ngày đêm tụng niệm Thánh hiệu không ngừng.

Thuyền nhỏ chở nhiều người, trong nóng ngoài lạnh, nên khi về nhà tôi thấy mệt nhọc. Đến 23.4 tôi thấy bệnh tình trầm trọng, 10 ngày không một hột gạo hay một giọt nước vào bụng. Đêm ngày 30 bệnh tình nguy kịch, thì thấy Địa Tạng Bồ Tát một tay cầm Trượng thiếc, một tay cầm Bình Bát. Ngài đứng trước giường bệnh nói: “Hãy yên tâm niệm Phật”.

Sáng hôm sau bệnh tình đã đỡ nhiều. Đến ngày 5 tháng 5 ăn cháo được, đến ngày Lễ Phật Đản thì khỏi hẳn. Nay nhờ Đại Pháp Luân Thư Cục xuất bản cuốn Địa Tạng Bản Tích Nhân Duyên 100 cuốn để báo đáp ơn sâu, đặc biệt ghi lại việc nầy vậy. (Giác Thuần)

loading...