Chùa Việt
Thăm chùa Sắc tứ Minh Thiện
Thứ bảy, 15/10/2015 11:47
Sáng nay, ngày 3/9/Ất Mùi (15/10/2015), Thượng tọa Thích Thiện Thông- trụ trì chùa Sắc tứ Minh Thiện đã thành kinh trang nghiêm tổ chức Lễ Giỗ Tổ Khai sơn và hiệp kỵ chư vị Tổ sư tiền bối.
Đi về hướng Tây, qua khỏi cửa Đông, rồi qua cửa Tây, đi dọc theo tỉnh lộ 2, khoảng 3 km, rẽ vào hương lộ bên trái khoảng 100m là đến chùa Sắc Tứ Minh Thiện – ngôi chùa cổ gần 350 năm, một danh thắng, nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, ở làng quê Thanh Minh, xã Diên Lạc yên bình, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Chùa Sắc tứ Minh Thiện - thôn Thanh Minh, xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa |
Giữa dòng chảy lịch sử
Trong lịch sử dân tộc Việt, Khánh Hòa chính thức trở thành đất đai Đại Việt từ năm 1653, mảnh đất nằm ở vùng duyên hải miền Trung, miền Thùy dương cát trắng, với những hàng dừa xanh tít tắp, bờ biển ngút ngàn, nơi nổi danh là xứ Trầm hương.
Từ giữa thế kỷ XVII (1653), vùng đất Khánh Hòa ngày nay đã trở thành một phần lãnh thổ của nước ta. Theo Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát: “Bia Võ Cạnh tìm thấy tại làng Võ Cạnh ở Nha Trang, thường được các nhà nghiên cứu xác định là xuất hiện vào thế kỷ thứ II sau Dương lịch viết bằng chữ Phạn. Phạn văn trở thành một ngôn ngữ được khắc trên đá từ thời ấy, ghi lại nền văn minh Ấn Độ lúc bấy giờ chủ yếu là đạo Phật”.
Trước khi đất Khánh Hòa thuộc về Việt Nam thì Phật giáo đã có mặt tại Khánh Hòa hơn mười bốn thế kỷ trước. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng như các bộ sử Đại Nam thực lục, “Đại Nam Nhất thống chí Việt Nam sử lược do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đều ghi: “Tháng 4 năm Quý Tỵ thứ 5 (1653) đời Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế (húy Nguyễn Phúc Tần), vua Chiêm Thành là Bà Tấm xâm lấn đất Phú Yên. Phúc Tần sai Cai cơ Hoàng Lộc Hầu làm Tổng binh và Xá Xai Minh Võ Hầu làm Tham mưu đem ba ngàn quân đánh trả. Nhân đêm, quân Nguyễn qua đèo Hổ Dương núi Thạch Bi thẳng đến trại Bà Tấm phóng lửa đốt phá. Bà Tấm thua chạy, sai con là Xác Bà Ân nộp lễ xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Rang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Rang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh (Khánh Hòa bây giờ). Đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm Thái thú”.
Như vậy, đất Khánh Hòa vào giữa thế kỷ XVII đã trở thành một bộ phận trên cơ thể đất Việt. Nói cách khác, từ năm 1653 người Việt Nam đã bắt đầu sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất Khánh Hòa. Điều đó cũng có nghĩa là đạo Phật mang tinh thần dân tộc Việt đã có mặt tại Khánh Hòa vào năm 1653, bởi vì bất kỳ ở đâu, khi một cộng đồng dân cư đến ở đồng thời cũng mang theo truyền thống văn hóa, tín ngưỡng và phong tục tập quán.
Chùa Sắc Tứ Minh Thiện, còn gọi là chùa Phật Lớn, bởi vì ngày xưa trong vùng này chỉ có tượng Phât Thích Ca được tôn thờ ở Đại hùng bảo điện chùa Sắc Tứ Minh Thiện là lớn nhất huyện Diên Khánh.
Chùa thay đổi vị trí nhiều nơi, mỗi nơi đều còn để lại dấu tích ghi đậm nét trang lịch sử Minh Thiện như: Núi Bút, Hòn Ngang (còn gọi là Hòn Tháp, nơi tôn trí tháp Tổ khai sơn), Xóm Đồng (còn gọi là Xóm chùa), Bến chùa (nơi Xí nghiệp Gỗ Việt Đức hiện nay) v.v…
Hiệp Đức hầu Nguyễn Phước Chiểu còn có tên là Thuần, Ngài con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) ở Đàng Trong. Ngài thọ giáo theo học Phật với Tổ Viên Khoan – Đại Thâm. Sau cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn đẫm máu, Hiệp Đức hầu càng hiểu rõ lý vô thường của đạo Phật. Vì vậy, ngài quyết chí từ quan xuất gia tu hành. Trong những ngày vân du về phương Nam, khi đến phủ Quy Nhơn, Bình Định, Hiệp Đức hầu có nhân duyên gặp Hòa thượng Giác Phong. Hòa thượng thấy Hiệp Đức hầu có tâm thành cầu đạo và có lòng muốn độ chúng sinh nên khen tặng bảy chữ: “Tôn nhơn tự giác, giác hàm sanh” và truyền cho bài kệ:
Từ đó Hiệp Đức hầu Nguyễn Phước Chiểu lấy hiệu là Giác Sanh Thiền Hòa tử tiếp tục vân du tu học. Đến trấn Bình Khang, (tỉnh Khánh Hòa ngày nay) Giác Sanh Thiền Hòa tử thấy ngọn Bút Sơn nằm bên bờ sông Cái, cảnh trí thích hợp cho việc tu hành nên dựng tích trượng tại đây, lập am tranh tu thiền, hoằng dương đạo pháp. Tài đức của Giác Sanh Thiền Hòa tử làm cho nhiều người kính phục, danh tiếng đồn xa, các quan chức và dân chúng khắp nơi nghe danh đã đến tham học và Quy y rất đông. Thiền sư Giác Sanh phải bỏ am tranh, xây dựng thành một ngôi chùa lớn lấy tên là Minh Thiện.
Trong sách Bình Khang thắng tích do quan Cai bạ Nguyễn Đình Xuân viết năm Tân Dậu 1740 cho biết, tên chùa Minh Thiện là do Tổ Giác Sanh lấy ý từ sách Đại học của Khổng Tử: “Đại học chi đạo tại MINH minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí THIỆN”, nghĩa là người học đạo của Thánh hiền phải sửa mình cho được sáng suốt, đức sáng giáo dục mọi người tiến tới tốt đẹp đến chỗ rốt ráo là rất hiền lành.
Chùa Sắc Tứ Minh Thiện được phong sắc tứ vào đời vua Lê Cảnh Hưng nguyên niên (1740), sau 70 năm khai sơn kiến tạo.
Lầu chuông- chùa Sắc tứ Minh Thiện (Diên Khánh) |
Đúng là:
Minh bảo ngự đường trung, đăng chúc huy hoàng hưng chánh giáo,
Thiện nhân triêu điện thượng lễ cầu thành kính hiển chân tâm.
Thượng tọa Thích Thiện Thông - trụ trì chùa Sắc tứ Minh Thiện, Diên Khánh |
Kiến trí Tổng quan
Trước chùa, cổng tam quan sừng sững, uy nghi, kiểu cách trang nhã, màu sắc hài hòa. Trên cổng tam quan có treo biển Chùa Minh Thiện. Mặt ngoài có câu đối:
Tự viện trang nghiêm hoàn thỉnh tề lâm phò chánh pháp,
Môn quan thanh tịnh tín tăng cu hội hộ nhân gian.
Mặt cổng tam quan có câu đối:
Minh đức viên dung hóa độ chúng sanh vô lượng, vô biên vô số kiếp,Thiện duyên thị hiện tùy cơ thuyêt giáo đại hùng đại lực đại từ bi.
Cổng tam quan chùa Sắc tứ Minh Thiện, ngôi chùa cổ gần 350 năm |
Ngôi chính điện Minh Thiện uy nghi, hai bên có cổ lầu, lầu chuông và lầu trống, góc mái uốn cong, bốn góc có giao long uốn lượn. Trên nóc mái có lưởng long chầu nguyệt. Trước hiên với hoành phi: “Sắc Tứ Minh Thiện”(敕 賜 明 善 寺), bên tay phải hoành phi ghi “Hoàng triều Cảnh Hưng, nguyên niên sắc phong”(皇 朝 景 興 元 年 敕 封), bên tay trái ghi “Mậu Thân niên kiết nhựt trùng hưng”(戊 申 年 吉 日 重 興), phía dưới “Minh Thiện tự Trú trì hiệu Huệ Đăng tạo”, cho ta biết chùa được phong sắc tứ vào thời Vua Lê Cảnh Hưng năm thứ nhất (1740), chánh điện được đại trùng tu vào năm Mậu Thân (1968), ngày lành, Trú trì chùa Sắc Tứ Minh Thiện, Hòa Thượng hiệu Huệ Đăng trùng hưng.. Tại Đại hùng bảo điện, trên bệ thờ Thế Tôn, tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni ngồi kiết già trên toà sen. Chính giữa chánh điện là bức hoành phi: “Giác hoàng điều ngự”(覺 皇 調 御)
Tuyết lãnh cửu tu chân phước huệ dung thông tam giới thiên nhân đồng kính ngưởng,
Kỳ viên tuyên diệu pháp từ bi hỹ xã thập phương đàn tín tịnh quy y.
Hai bên chánh điện, một bên là bàn thờ đức Quán Thế Âm, Quan Thánh Đế Quân và một bên là bàn thờ Địa Tạng Vương Bồ tát. Sau chính diện là Tổ đường thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma và long vị của Chư vị Tổ sư tiền bối nơi ghi đậm dấu ấn của Chư vị Tổ sư đã khai sơn, nối tiếp truyền thừa cho đến ngày nay.
Ở trên bàn Tổ là bức hoành phi: “Truyền đăng tục diệm”(傳 燈 續 焰), hai bên bàn Tổ với câu đối:
Phía trước Tổ đường là bức hoành phi: “Tổ ấn trùng quang” (祖 印 重 光) và hai bên với câu đối:
Tháp Tổ tại khu vường tháp chùa Sắc tứ Minh Thiện (Diên Khánh) |
Trí Bửu, Thành kinh đảnh lễ tưởng niệm Tổ Khai sơn chùa Sắc tứ Minh Thiện (Diên Khánh – Khánh Hòa)