Kiến thức
Thong dong trước tám ngọn gió đời
Thứ bảy, 05/01/2024 09:40
Chúng ta thường bị nhiều thứ ràng buộc từ đời sống, chịu sự chi phối không những đối với cảm thụ vật chất mà còn những quan hệ về nhận thức, tư tưởng khởi nguồn tác động từ bên ngoài và cả bên trong chúng ta.
Sự va chạm và phát sinh cảm giác khổ/lạc hay những tư duy đối lập không ngoài sự truy cầu hướng ngoại của tâm; khi tâm thụ động đối với ngoại cảnh là lúc tám ngọn gió đời (bát phong) thổi tâm chúng ta lung lay với những: được/mất, nhục/vinh, khen/chê, khổ/vui (lợi/suy, hủy/dự, xưng/cơ, và khổ/lạc) không lúc nào ngơi.
Có ai trong đời mà không vui vì được, đau vì mất. Ước mơ để được một điều gì đó là bản chất của thế nhân; “sống là tranh đấu”, tranh đấu để sinh tồn là một điều tích cực, bên trong ý nghĩa tích cực lại hàm chứa những tiêu cực. Không phải dễ, khi ta tranh đấu cho ta, cho những người thân của ta, rồi mới nghĩ đến những người khác. Ngoài sự sinh tồn như một con người, chúng ta cũng cần có được một điều gì đó như (với) xã hội loài người cũng không phải đơn thuần, hẳn nhiên là những trở ngại, rồi những nỗ lực để vượt qua; trên con đường vượt qua chúng ta phải đối diện với những nỗi đau để ‘được’, và khi được rồi, chúng ta lại phát sinh tâm lý sợ mất, mất cái mà chúng ta đã dày công tạo dựng, hoặc có thể chưa hài lòng với cái mà chúng ta "được", rồi tiếp tục tranh đấu để "được" những cái khác như người …Như thế, đời sống đã trở thành những tháng ngày hoài vọng, tranh đấu và lo sợ với hai chữ: được và mất.
Đối với sự vinh/nhục và khen/chê cũng thế, “chết vinh hơn sống nhục” đã trở thành châm ngôn cho những ai được gọi là "quân tử". Tuy nhiên, vinh và nhục cũng có thể đối với bên này mà không đối với bên khác; và chết để được vinh danh lại trở thành một vấn đề sau khi chết (?) Nguyễn Công Trứ có câu: “Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.” Chữ "danh" ở đây, có lẽ nhà thơ muốn nói đến việc "làm lợi gì cho đất nước, cho nhân sinh"; có thể, không mang nghĩa là cầu danh hay đánh bóng tên tuổi như những nhà chính trị đã tạo ra những cuộc chiến tranh lịch sử (?). Ngoài nghĩa như trên, vinh/nhục còn mang ý nghĩa về sự thành tựu của một con người trên phương diện xã hội trong những khía cạnh riêng; thành tựu về con đường học vấn, trong kinh doanh làm ăn, trong quan trường chính trị, gặp được một người phối ngẫu có danh vọng v.v… Như thế, sự thành tựu trên khái niệm vinh/nhục hay khen/chê không ngoài nghĩa cầu danh, cầu được tiếng khen, vui với tiếng khen, buồn với nỗi nhục, với những lời chỉ trích, chê bai, hay không được ca ngợi. Và cũng trên phương diện xã hội, khái niệm vinh, nhục, khen, chê vẫn là đạo đức căn bản của thanh danh; chọn cái tốt để lưu danh luôn được cổ xúy.
Ngọn gió vinh/nhục, khen/chê vốn vô hình nhưng công sức của chúng khôn lường đối với tư duy nhận thức chung của con người, chúng theo ta trong suốt cuộc hành trình làm người. Không ai không ưu ái đối với danh-lợi, không ai không đau với những mất mát, tủi nhục… Những cơn gió vinh/nhục/khen/chê cứ thổi lui thổi tới trong thân phận chúng ta như làn gió bốn mùa thay nhau. Chúng ta thường ao ước ở đỉnh cao của vinh quang như người khác và quên rằng tiến trình mà nó đi qua và sẽ tới, Charles Spurgeon nói: “Đừng tưởng rằng đường đến Thiên đàng là lên đỉnh vinh quang, nó thổi bạn xuống thung lũng của sự ê chề.” (“do not dream that the path to heaven is up the hill of honor, it winds down into the valley of humiliation.’) Trên/dưới, vinh/nhục, khen/chê, sướng/khổ là những cặp phạm trù mâu thuẫn cùng đứng với nhau trong thì hiện tại, nhưng tri tưởng khiến ta nghĩ chúng có sự khoảng cách, ngỡ rằng ta đạt được một cái gì đó, hay ta mất một điều gì đó. Kinh Tứ thập nhị chương nói rằng: “Người ham muốn danh tiếng như đốt hương, khi người ta ngửi được mùi thơm thì cây hương đã tàn rồi.” Như thế, bản chất của danh tiếng hay danh lợi vốn chóng vánh, vô thường, tốt xấu đều chóng vánh vô thường; tuy nhiên, trên mặt hiện tượng chúng vẫn song song tồn tại và vận hành trong thế sáng/tối. Vui và khổ cũng bất chợt, chúng đi từ bên ngoài mà chúng ta ngỡ bên trong. Chỉ là những làn gió, “phướn chẳng động mà tâm động”; sự điên rồ của ý thức là chấp ngoại tại như bản ngã thực hữu, và ‘khổ’ vô hình dung xuất hiện.
Trong kinh Lokavipatti Sutta (kinh Những bất thành của thế gian), Đức Phật nói về tám pháp thế gian trong thế giới con người; một người thực sự có năng lực tu tập, có trí tuệ quán sát sẽ nhận ra được tám pháp kia là tụ tán và thường, và nhân đó không khởi tâm yêu và ghét chúng:
“Được, mất và nhục, vinh
Chê, khen và vui, khổ
Trong thế giới loài người
Là những pháp tùy thuộc
Sinh diệt và vô thường
Chúng không ngừng thay đổi.
Biết thế, người trí tuệ
Chánh niệm, quán sát chúng
Là duyên hợp đổi thay
Pháp ưu ái, không động
Không ưu ái, chẳng sầu.
Với thuận cảnh, nghịch cảnh
Đã tiêu mất, không còn
Tuệ giác không trần cấu
Tâm không còn phiền não
Vị ấy hiểu biết đúng
Đã đạt đến siêu việt
Bước tới được bờ kia”.
(TNTQ dịch Việt)
Như thế, trí tuệ mà Đức Phật muốn đề cập đến là sự hiểu biết đúng, đồng nghĩa với tâm không còn bị chi phối bởi trần cấu, phiền não, hay còn bị khuynh đảo bởi tám ngọn gió đời. Người không còn tùy thuộc bởi ‘được, mất, vinh, nhục, khen, chê’ là người không còn vui buồn theo thế gian. Trong cuộc sống có những điều như ý khiến cho chúng ta vui, những điều bất như ý khiến chúng ta đau buồn; đối với tài sản, sự nghiệp, gia đình, thanh danh…một đời chúng ta có được, và ngỡ rằng đó phúc báo của ta; nếu chúng thực sự là phúc, là của ta tại sao chúng ta không hưởng thụ mãi được (?), chúng ta có vui tiếp tục khi phải lìa khỏi chúng lúc chúng ta đau yếu, khi cô đơn trên giường bệnh (?). Sự hỉ hả về ‘được’ luôn hàm chứa những niềm khắc khoải về ‘mất’. Bạn đến gần, bạn trong tay tôi rồi đấy, ai có biết rằng bạn sẽ không thay đổi, khi tôi sẽ không phải là tôi bây giờ.
Nhận thức thực tính hai mặt của một vấn đề, người tu tập sẽ không bị động trước tám ngọn gió mỉa mai của thế gian, ngọn gió thổi rát lòng người và cuối cùng ai cũng đau vì chúng. Khi quán chiếu thâm sâu, chúng ta sẽ đạt được cái nhìn siêu việt, không còn bị chúng thổi tới tấp vào tâm, và khi tâm không còn rung động vì chúng, thực sự chúng ta mới bước tới được bờ kia, bờ Niết-bàn an tĩnh.