Sách Phật giáo
Tự truyện một người tu (P.4)
Chủ nhật, 02/05/2015 06:50
Tất cả có 45 bài kệ niệm để giữ tâm chánh định và phát khởi lòng bi mẫn đối với mọi loài chúng sanh. Tâm niệm của một người tu dù là mới bước vào cửa đạo, cũng được uốn nắn và thuần thục với những niệm lành và ý nghĩ cao thượng như vậy. Những tâm niệm vọng động, ích kỷ nhỏ nhen cần phải bỏ lại tất cả cho cuộc đời.
CHƯƠNG IV
HỌC HẠNH MỘT NGƯỜI TU
Hai mươi hai năm trước đến chùa lễ Phật, nhìn dáng thầy uy nghiêm, con cúi chào mà khơi phát xuất trần hạnh nguyện.
Hai năm sau vào chùa xuất gia, trông bóng thầy cao cả, con sụp lạy mà hưng phấn Bồ đề đạo tâm.
Cõi đạo vô biên, chân con bé bỏng, thầy dìu con bước, sáng chiều sớm tối với Tỳ ni Nhật Dụng.
Cửa pháp vô cùng, tâm con cạn cợt, thầy dạy con tu, phút giây tháng ngày trong Tịnh Độ pháp môn.
Bưng bát cơm, nâng tách nước, tam thiên oai nghi thầy chăm chút nhắc nhở.
Lau bàn thờ, tưới vườn hoa, bát vạn tế hạnh thầy tỉ mỉ khuyên răn.
Khi hoang mang, khi nản lòng nhớ lấy gương thầy mà vươn mình bước thẳng.
Lúc vấp ngã, lúc buông xuôi, ôn lại lời người mà ngước mặt đi lên.
Lời người đó, ấu thời xuất gia, tâm chưa vọng động dễ huân tập, để mai này "thiệu long thánh chủng"
Gương thầy đây, tuổi thơ vào chùa, chân còn chập chững, đã cảm nhận từ bây giờ "phát tục siêu phương"
Cơm đạm bạc nhờ thế mới nuôi bền giống Phật
Áo thô sơ do vậy mà che ấm thân phàm.
Vĩnh Hảo
Thử thách ban đầu đến với tôi là học thuộc lòng bài kinh Lăng Nghiêm. Nhìn cuốn kinh thầy giao với bài kinh Lăng Nghiêm, và các bài sám tụng ban sáng mà tôi thấy ớn người. Tôi vẫn biết mình có cái vinh dự là được xuất gia trước khi học thuộc bài, vì theo truyền thống thì không ai được vậy, mà họ còn phải làm công quả, sống đời sống tập sự xuất gia cả hàng năm trời trước khi được cạo tóc. Tôi biết mình có may mắn, nên cái khó của việc học kinh chẳng làm tôi nản lòng, mà coi đó như là một thử thách đầu tiên. Thế là sau đó đêm ngày tôi học, từng đoạn, từng đoạn rồi sau ráp lại và cuối cùng việc gì đến nó cũng đến; đó là ngày tôi được kêu lên hỏi bài. Thầy tôi chọn một số đoạn trong kinh và nói tôi bắt theo đó mà đọc tiếp. Tôi cũng còn nhớ là khi đó tôi đọc cũng suôn sẻ, nên thầy rất hài lòng.
Công việc học kinh cũng chưa hết, và tôi bắt đầu được yêu cầu học tiếp bài kinh A Di Đà với các nghi thức liên hệ trong thời công phu chiều. Một tuần sau, tôi lên trả bài cho thầy để thầy biết là tôi đã học thuộc tất cả các bài kinh trong một thời gian khá kỷ lục. Thầy tôi lại cũng tỏ lòng vui vẻ, vì thấy đứa đệ tử mới này cũng không đến nỗi ngu đần.
Thầy tôi khoảng mươi năm trước còn rất trẻ, tôi còn nhớ khi vào chùa lần đầu tiên tôi gặp thầy đang loay hoay làm cái gì đó trong chánh điện. Không biết đó là thầy trụ trì, tôi bước đến gần và hỏi: "bạch thầy, con muốn được xin gặp thầy Như Điển", thầy đáp: "thầy đây". Sau đó tôi mới giới thiệu với thầy rằng tôi là phật tử từ Đan Mạch đang muốn đến lễ Phật.
Là một người được đi du học ở xứ Nhật, thành tựu và sau có nhân duyên sang Đức và làm việc phật sự tại đây, thầy tôi đã chứng tỏ là một người có khả năng và đạo hạnh. Cái khả năng mà thầy tôi được thừa hưởng từ nơi những ngôi chùa, tổ đình ở Việt Nam cho đến khoảng thời gian sống ở Nhật đã làm thầy tôi trở thành một con người có chí và ham học. Do đó thầy đã không mấy dễ dãi trong việc học hành đối với các đệ tử, những mong về sau các thế hệ này mới có thể đóng góp cho đạo một cách tích cực.
Tôi và các chú lớp lớn lúc ấy đã một phen bở vía vì cái khó của thầy. Lớp trước tôi có hai chú, đó là chú Thiện Phước và chú Thiện Thành và hai chú này xuất gia trước tôi độ một năm. Thời gian đầu vào chùa, tôi như con nai hiền; ai sai đâu dạ nấy, ai bảo gì làm nấy nhưng rồi ra ngoài những giờ làm việc ấy, tôi rúc vào phòng và tìm chỗ yên tịnh để xem kinh sách. Cuộc sống gần như lập dị đến nỗi nhiều người phải than phiền. Có lẽ đó là cá tính riêng của mỗi người, và đôi khi tôi thấy mình cũng kỳ kỳ khi nghe người ta nói quá nhiều và muốn sửa, nhưng được một hai ngày rồi đâu cũng hoàn đó.
Khoảng hai tuần sau ngày tôi xuất gia, một buổi thế phát khác cũng được tổ chức tại chùa, vậy là có thêm một chú nữa xuất gia! Pháp danh chú là Thiện Tín, con người xương xương nhưng có một nghị lực vô cùng mạnh mẽ. Ngày chú xuất gia cũng có tôi dự lễ, ngày trước ấy có một buổi họp của các thầy cô trong chi bộ, nên buổi lễ hôm đó có đông quý thầy cô tham dự. Chú cũng có hai cô em gái tham dự trong buổi lễ, lúc đọc lời phát nguyện cũng như lúc cắt tóc chú, tôi để ý thấy hai cô em gái chú khóc, má chú không đi dự lễ này vì bà ta không được vui nhưng phải miễn cưỡng bằng lòng cho phép chú xuất gia.
Là con trai một trong gia đình và được mẹ gửi ra nước ngoài từ lúc nhỏ, bà rất trông mong và hy vọng vào tương lai tươi sáng của con mình. Có bà mẹ nào mà không mong con được công thành danh toại với cấp bằng kỹ sư, tiến sĩ nọ kia. Chú cũng học giỏi và đang trên đường thành tài, cùng thời gian ấy bảo lãnh được mẹ và hai cô em gái sang. Không ngờ tin vui với những thành tích học tập mà con bà đạt được thì nghe tin con trai đi xuất gia. Cả một bầu trời hy vọng tan rã và bà ta buồn bã suốt ngày, cố tìm mọi cách ngăn trở. Thời gian nghe đâu cũng kéo dài gần một năm trời ở trong chùa làm việc công quả, mà vẫn chưa được phép mẹ cho đi xuất gia. Có lúc mẹ chú lên chùa khóc lóc, xỉu lên xỉu xuống khi nói chuyện với thầy và yêu cầu thầy đừng dụ dỗ chú đi tu.
Tuy nhiên có lẽ khi thấy tôi đến sau mà được xuất gia trước nên chú cũng háo hức, tìm phương cách khác để mong thành tựu ý nguyện của mình. Thế là buộc lòng chú phải về nhà thuyết phục và làm áp lực với mẹ: "nếu mẹ cho con đi xuất gia, thì con còn ở gần mẹ, còn không con sẽ đi thật xa sang một nước nào đó ở tận bên kia chân trời". Nghe người con nói vậy, bà có lẽ biết rằng con mình giờ đây đã vượt khỏi tầm tay của mình, nên miễn cưỡng gật đầu mà hai hàng lệ chảy tuôn. Vậy là ý chí và nghị lực của chú rốt cuộc cũng được tương thưởng bằng lễ thế phát xuất gia sau đó.
Kể từ khi có thêm bạn mới và đông các đệ tử, thầy tôi lập chương trình và giảng dạy chúng tôi kỹ hơn. Về giới luật có các phần về oai nghi tế hạnh của một người xuất gia, về tu niệm có pháp niệm tâm nương theo các bài kệ trong Tỳ ni Nhật dụng, về kinh thầy giảng về ý nghĩa các bài kinh quan trọng và phổ thông hàng ngày, về chữ nghĩa thầy dạy Hán văn của các bản kinh thường tụng và về phần nghi thức, thầy dạy cách đánh chuông mõ và âm điệu nhịp tán tụng. Thầy chăm chút nhắc nhở và dạy bảo từng ly cho chúng tôi như người cha, người mẹ hiền thương yêu chăm sóc cho những đứa con đầu lòng. Chúng tôi đã là những người con biết lễ, vì trong thời gian đầu ấy vâng lời thầy một cách kính cẩn; các thời khóa tụng công phu buổi sáng, buổi chiều không khi nào bỏ sót.
Nếu người đời quan niệm rằng những kỷ niệm đẹp nhất là trong thời thơ ấu của lứa tuổi học trò, hoặc trong thời gian ban đầu của tình yêu thì với một người tu, thời gian mới bước vào chùa làm chú tiểu, tu học sẽ là thời gian của những kỷ niệm đẹp nhất trong đời. Giờ đây đã mười năm qua rồi, tôi không màng những kỷ niệm thời thơ ấu nhưng với kỷ niệm của thời ở chùa, thời gian học đạo ban đầu với thầy vẫn còn man mác và bàng bạc trong tôi. Bắt đầu vào chùa tu là bắt đầu bước vào một ngưỡng cửa mới, một khúc quanh ngã rẽ của cuộc đời. Ờ đó tôi được thầy dạy bảo từng ly từng tí. Làm một người tu không phải là đơn giản vì làm một người tu là làm một người mẫu mực để cho thế nhân nhìn vào mà noi theo. Thầy tôi có lần còn nói: "người tu là người làm dâu cho trăm họ". Thế đấy, có đơn giản và dễ dàng đâu! Một người con gái khi lập gia đình thì phải về làm dâu nhà chồng. Sớm hôm tận tụy trong các công việc trong ngoài, công dung ngôn hạnh đều thông để có thể làm vui lòng gia đình chồng. Thế mà người tu nào cũng phải trải qua sự chịu đựng, sự than phiền trách cứ nào đâu của một người, một gia đình đâu mà cả một nhân thế.
Thế nên việc đào luyện một người tu ngay từ trong trứng nước là cả một công trình của một vị thầy. Thầy tôi và ngôi chùa Viên Giác tựa như người chủ và một lò rèn, mà ở đó chúng tôi như những đồ vật mẫu được đưa vào để rèn lại hầu có ích và hữu dụng hơn cho đời. Từ cách nói văng tục, những ngôn từ thô lỗ ngoài đời, tôi được chỉnh và sửa lại với những từ ngữ nhẹ nhàng, có ý vị đạo để làm cho những người buồn phiền được vui, những người vui được thấm nhuần lý đạo. Rồi cách đi, cách ngồi thô lỗ ngoài đời, tôi cũng được thầy dạy lại, chỉ bày cặn kẽ về những oai nghi tế hạnh khi đi, khi ngồi của một người tu để người ta nhìn vào sanh lòng mát mẻ dễ chịu vì những sự đoan chánh, trang nghiêm của một kẻ sống đời khác tục. Những điều này cũng chẳng dễ đâu vì tôi cứ hay bi quên hoài là khi đi hai tay đánh lắc lư thật mạnh, khi quên thì chạy xốc áo xốc quần, khi ngồi thì gác chân lên bàn, lên ghế hoặc ngồi dãng cả hai chân. Toàn là những cử chỉ thô tháo dị hợm của những người thiếu học. Những lúc thầy tôi gặp vậy, thầy thường hay cười và ký vào đầu tôi một cái để nhắc nhở, tôi giật mình chợt hiểu và trở về cái tế hạnh mà tôi vừa mới học. Thật là ngu, vì sao khi bị ăn ký thì tôi mới hiểu và ý thức được điều ấy nhỉ!
Không phải chỉ nơi những lời nói và các hành động bên ngoài mới cần sửa đổi mà ngay cả các quan niệm, nhận thức, lối hiểu của tôi theo phàm lệ cũng được chùi rửa và đánh bóng lại. Tôi không được nghĩ nhiều dù là những chuyện đúng ở ngoài đời, huống hồ là nghĩ tưởng đến những chuyện bậy. Cái đúng, phải hợp theo thế nhân dần được loại bỏ, trong tôi cần phải được thay thế bằng những giây phút chánh niệm, có ích cho sự tu tập bằng cách làm khởi phát những tâm niệm lành, có lợi cho mình và chúng sinh. Lúc ấy tôi thấy sao đâu đâu? cái gì cũng có chúng sinh ở trong đó và tại sao phải vậy? khi mà chính mình cũng chưa có được những lợi ích như vậy. Thầy tôi phải rộng nghĩa giải bày, khi gần khi xa cái lý nhân duyên và quan hệ sâu xa giữa mình và chúng sanh thì đầu óc ngu tối của tôi khi ấy mới được rõ ràng.
Những thao tác hàng ngày của tôi lúc bấy giờ bắt đầu được đi kèm với chánh niệm qua các bài kệ ngắn trong Tỳ ni Nhật dụng. Ngay từ tờ mờ sáng thức dậy, lúc còn nằm trên giường tôi đã được dạy phải niệm thầm bài kệ: "Ngủ nghỉ mới dậy, cầu cho chúng sinh, trí tuệ tỏa biết, khắp đoái mười phương", nghĩa là: khi tôi mới thức dậy, tôi cầu nguyện cho tất cả chúng sinh có được trí tuệ sáng suốt chiếu rộng khắp cả mười phương.
Trước khi bước chân xuống giường cũng phải niệm một bài kệ khác: Giờ đây buổi sáng giờ Dần cho đến lúc tối, cầu nguyện cho hết thảy các loài chúng sanh đều tránh gây tạo các nghiệp ác, khi bước chân xuống dưới giường và vo tình chạm phải những chúng sinh nào để nó phải chết, tôi xin cầu nguyện cho nó được vãng sinh vào cảnh giới an vui của tinh độ, án...
Khi bước vào nhà tắm, lấy nước để rửa mặt cũng có lời niệm: "Lấy nước rửa mặt, cầu cho chúng sinh, được pháp môn sạch, hàng không dơ bẩn, bàn lam toa ha", nghĩa là: khi tôi lấy nước rửa mặt, tôi cầu nguyện cho tất cả chúng sinh chọn được một pháp môn tu thanh tịnh, không bị những ô uế dơ bẩn, An...
Khi lấy nước rửa tay cũng khởi niệm: "Lấy nước rửa tay, cầu cho chúng sinh, được tay trong sạch, vâng giữ pháp Phật, án chú ca ra da toa ha", nghĩa là : khi tôi lấy nước rửa tay, tôi cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, đều có được những bàn tay trong sạch để duy trì và làm sáng rạng giáo lý của đức Phật, Án...
Đến khi đi vệ sinh, khởi niệm: "Khi đi đại tiện, cầu cho chúng sinh, bỏ tham sân si, dứt hết các tội, Án ngận lỗ đà da tóa ha", nghĩa là: khi tôi đi vệ sinh, tôi cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, loại bỏ được hết tất cả tham sân si và dứt trừ hết tất cả mọi tội lỗi, Án...
Tiếp theo là một dọc dài các bài kệ để niệm mỗi khi đi, đứng, ngồi, nằm, khi nói chuyện, khi ăn, khi uống v.v.. cho đến khi tối bước chân lên giường để ngủ:
"Đến khi ngủ nghỉ, cầu cho chúng sinh: Đến khi tôi nằm ngủ này đây, tôi cầu nguyện cho tất cả chúng sinh có được một trạng thái tâm an ổn và cõi lòng không bị náo loạn.
Tất cả có 45 bài kệ niệm để giữ tâm chánh định và phát khởi lòng bi mẫn đối với mọi loài chúng sanh. Tâm niệm của một người tu dù là mới bước vào cửa đạo, cũng được uốn nắn và thuần thục với những niệm lành và ý nghĩ cao thượng như vậy. Những tâm niệm vọng động, ích kỷ nhỏ nhen cần phải bỏ lại tất cả cho cuộc đời.
Hèn chi mà tôi ngay từ lúc nhỏ đã cảm thấy nơi những người tu có những cử chỉ và hành động nhẹ nhàng đoan trang khác với những người thường. Tôi chợt nhận ra nơi người tu là có cả một quá trình luyện tập và làm chủ tâm ý mỗi khi làm việc, hoặc nói năng. Những điều ấy làm sao có được nơi một người thế tục dù rằng ở nơi họ có đủ bằng cao chức trọng. Nếu ở nơi người thế gian họ trang điểm chính họ bằng những vật trang sức hay ở những mảnh cấp bằng thì nơi người tu, trang sức đẹp đẽ nhất chính là chánh niệm và những giới hạnh trong cuộc sống. Chính những điều này mới là trang sức trang nghiêm và làm đẹp người tu.
Đức Phật đã dạytrong kinh Pháp cú:
Hương các loại hoa thơm,
Không ngược bay chiều gió.
Nhưng hương người đức hạnh,
Ngược gió khắp tung bay.
Sống trong xã hội ngày nay, tôi càng thừa hiểu và thấm thía hơn tự bao giờ về những điều mà con người ta thường tự ước định. Một người tốt hoặc lịch sự phải là người có học thức, có áo quần thật đẹp với những bộ áo vét thẳng, thắt nơ cà ra vát. Vượt ra ngoài những ước lệ đó là ta sẽ bị nhìn với đôi mắt nghi ngờ và dò xét. Thế nhưng có phải mỉa mai thay khi cũng có rất nhiều người rất có học thức, có áo quần thật đẹp nhưng lại là những người xấu xa và thô tục nhất. Nếu chiếc áo không làm nên ông thầy tu, thì làm sao những cái hình tướng giả tạo bên ngoài ấy lại có thể tạo nên những con người tốt và lịch sự được, như con người ta thường tưởng và ước định. Thế nhưng đó lại gần như là cái nhìn và quy luật chung của con người trên thế gian này. Chính cái tạm bợ và giả dối ấy mà đức Dalai Lama cũng phải than rằng: "Con người ta thường sống không thật với chính họ. Họ cười nhưng không phải cười, vui vẻ, niềm nở và lịch sự nhưng không phải vui vẻ niềm nở và lịch sự. Phải chi con người biết sống thật thì thế giới này sẽ ít hiểm họa, và nhân loại sẽ được an bình hơn".
Tôi công nhận rằng người tu ngày nay cũng ít nhiều bị lệ thuộc vào cái ước định chung của nhân thế, để dần dần thay đổi bản sắc của chính mình, dù rằng mình là những người có trách nhiệm soi sáng những sai lầm trên cho người thế tục. Một cái danh từ Đại đức hay Thượng tọa khi được kèm vào câu thưa gửi cũng làm cho người tu vui thêm lên, một chiếc y vàng có thêm những đường kim tuyến cũng làm người tu cảm thấy sang hơn và hãnh diện hơn thường lệ, tất cả những thứ đó nếu khởi đầu không xuất phát từ những người chung quanh thì là ai. Hình như con người có cái tâm lý thích được tôn vinh và sùng bái; nhưng tiếc thay đó lại là bề trái của cái ngã, cái mà người tu cần phải thường xuyên ý thức và đoạn trừ.
Có những người đời thường đem so sánh những chú tiểu hoặc các thầy trẻ tuổi với hàng con cháu của họ:
"Chào chú, chào thầy! sau khi chuyện trò một lúc, à! thầy cũng bằng tuổi con, cháu của tôi, đứa út tôi năm nay cũng bằng tuổi thầy đó, thầy đi tu bao lâu rồi? Tội nghiệp thầy quá, tu hành cực khổ, trẻ mà đã đi tu rồi! Thầy tôi thường kể những chuyện như vậy cho chúng tôi nghe, cũng có lắm khi đáp lại cho các phật tử ấy rằng: cho dù bác có 70, 80 tuổi đi nữa thì với đạo bác vẫn còn là con số không, còn khờ khạo và ngây thơ vô cùng. Tôi lấy làm thú vị với những giải thích của thầy tôi lắm, vì ít ra tôi cũng có cái để hơn họ, hơn những người đã từng đi trước tôi cả một hai thế hệ. Những điều thầy tôi nói là sự thật vì họ tuy lớn tuổi và quá khứ dù có những kinh nghiệm thành tích phi thường trong cuộc sống, họ vẫn là những chú bé nhồi bông của người thợ vô minh. Để rồi trong cuộc sống từ cách suy nghĩ, đi đứng, ăn uống nói năng đều căn cứ và chấp vào thân này, cái tôi này, vợ con tôi, nhà cửa và tài sản của tôi này. Có một phút giây nào chăng trong cuộc đời, họ giác tỉnh theo lời dạy của đức Phật về cái vô nghĩa của thân mạng họ, vợ con và tài sản họ một mai này khi mất đi:
Con tôi, tài sản tôi, Người ngu sanh ưu não;
Tự ta, ta không có, Con đâu, tài sản đâu?
Mấy khi họ ý thức được điều này về cái giả tạm, vô thường của thân xác, gia đình và cuộc đời để bớt bám víu vào, bớt chấp thủ vào hầu dần dần cởi bỏ để đi tìm một lối thoát cao cả, và lợi ích hơn cho tha nhân.
Thế mà họ còn nhìn người tu hành với những cặp mắt tội nghiệp và thương xót, đối với họ người tu hành là người đáng tội và đáng thương. Tôi đã từng nghe nhiều người tỏ lòng thương không đúng chỗ lên những người tu hành. Tôi không hiểu có bao giờ họ đặt lại vấn đề đó nơi ho, để tội nghiệp và thương xót cho chính họ hay không. Dĩ nhiên là khó thấy quá, ngay cả một số người tu chúng tôi cũng khó thấy nếu họ không được trang bị niềm tin chính kiến và sự hiểu biết trí tuệ. Có lần nọ một thầy ngồi nói chuyện với tôi: "Thầy sống làm sao cố gắng sống để cho người phật tử họ thương mình."Tôi không bằng lòng lắm với câu nói trên và đáp lại rằng: "Dĩ nhiên là đừng làm cho họ ghét người tu; nhưng nếu để làm cho họ thương theo kiểu tội nghiệp người tu, thì con không cần. Con không cần họ thương mình theo kiểu tội nghiệp, vì mình có làm gì đâu để họ tội nghiệp, họ phải tội nghiệp cho chính họ mới đúng. Họ sống trong cái giây nhợ chằng chịt buộc ràng của đời sống gia đình, họ sống trong cái tôi của bản thân, cái tôi giùm cho vợ, con, nhà cửa và tài sản và cho trăm nghìn cái vật linh tinh khác mà không một chút ý thức. Toàn bộ năng lực của thân người họ đều dùng vào mục đích kiếm tiền để bảo vệ cho cái tôi của họ, của người thân và tài vật của họ dù rằng những thứ ấy họ phải miễn cưỡng buông xuôi, một khi nhắm mắt từ giã cõi đời với hai bàn tay trắng. Họ sống mà không một chút ý thức về sự thật và chân lý chắc thật như vậy, thì họ mới đáng là người cho chúng ta tội nghiệp chứ". Nghe tôi trả lời như vậy, thầy ấy im lặng. Thời gian không lâu sau, thầy ấy cởi áo hoàn tục.
Những tháng ngày đầu trong chùa trôi qua êm ả và nhanh như một giấc mộng. Tôi bắt đầu thấy mình chín chắn hơn trước, qua những lễ nghi phép tắc của người tu mà tôi phải giữ. Tuy nhiên tôi thấy mình cô đơn trong môi trường mới. Thầy tôi là một khoảng cách xa mà tôi chẳng với tới được và thầy chỉ có nói chuyện gì cần thiết với tôi khi có chuyện mà thôi, ngoài ra các huynh đệ khác họ dường như chỉ thân mật và chơi chung với nhau. Tôi như một thằng lính mới vừa vào quân đội, lại chẳng mấy cởi mở nên rồi chỉ biết sống với thế giới riêng tư của mình. Chùa Viên Giác lúc ấy còn ở nơi cũ, một kho hàng cũ mèm đã được thầy tôi cùng các phật tử sửa sang và tân trang trở lại và đặt tên cho nó là: "chùa Viên Giác." Thế nên cái chùa mà tôi ở đó tuy thanh tịnh và rất hiền hòa nhưng những tháng năm đầu quả là những tháng năm chật vật, mùa đông, mùa hè chúng tôi đều phải ngủ dưới hầm với những không khí khi thì lạnh như băng giá, khi thì ẩm thấp chật chội. Trong cái khó khăn và không khí ấy tôi đã dần dà trưởng thành.
Làm chú tiểu ở chùa không sướng đâu, vì tôi phải đảm xuyến hết mọi công việc trên chánh điện; những công việc mà tôi thường chẳng thích mấy. Cũng may có chú Thiện Tín phụ giúp tôi mọi chuyện, nên tôi cũng đỡ khổ ở những việc làm này. Tôi không có khéo tay trong mọi việc nên việc gì thầy giao tôi thường làm sai hoặc hư hỏng, do đó khi được giao những công việc làm thì tôi thường cảm thấy rất sợ. Thầy tôi lúc ấy dữ lắm chứ chẳng hiền như hàng ngày đâu? Nếu tôi làm sai hoặc hư hỏng thì việc ăn đòn chắc không thể nào tránh. Thế nên chuyện gì tôi làm không xong là tìm cách bán cái qua cho chú Thiện Tín. Ở trong chùa chú có tâm tốt không ai bằng, nên tôi cũng cảm thấy gần gũi và được an ủi phần nào những lúc cô đơn. Có lẽ cái tính hư đốn của mình trong các công việc, nên tôi rất sợ việc làm nhất là những việc làm có tính cách trưng bày, sắp đặt trên chánh điện. Những lúc tôi bị sai chưng bông, đổ nước, lau chùi, rửa ly tách, chà bình và các cây đèn trên chính điện là những lúc tôi cảm thấy khổ sở nhất. Lúc ấy tôi hay than phiền và càm ràm trong lòng rằng: "Sao mà cứ làm hoài! Bàn thờ gì mà nhiều bình bông quá! Đèn cầy sao lại đốt hoài? Bàn thờ đâu thấy bụi mà sao cứ bắt lau mãi! Thì ra khi vào chùa rồi, tôi mới thấy được những công việc mà khi ở ngoài tôi không thể thấy.
Cũng may ngoài những giờ phút làm việc không mấy vui ấy là thời gian tôi được học, xem kinh sách và bàn tán chuyện đạo với mấy chú bạn. Kể từ khi tôi xuất gia tôi chẳng mấy khi chơi với người ngoài nữa mà chỉ quanh quẩn trong chùa và đôi khi chuyện trò với mấy chú. Cái thế giới bên ngoài dường như đã xa khỏi tôi rồi và tôi chẳng mấy để ý tới nữa. Một phần thầy tôi cũng không muốn cho tôi tiếp xúc nhiều với các phật tử, nhất là với các phật tử nữ vì sợ tôi yếu lòng sẽ dễ bị sa ngã.
Thế nên vâng lời thầy và tự trong tôi lúc ấy cũng chẳng ham kết bạn, nên tôi vẫn cứ thường tìm cách xa lánh mọi người. Đôi khi những buổi lễ tổ chức ở chùa, phật tử đến đông và người người vui vẻ, tôi vẫn thấy mình cách biệt và xa lạ với họ. Họ và tôi khác nhau nhiều quá, họ và tôi là hai thế giới riêng biệt. Dù rằng cũng có một vài phật tử thấy tôi là lính mới, nên cũng tò mò tìm đến gạ chuyện và tìm hiểu, nhưng tôi lại đáp cho qua chuyện và tìm cách lẩn tránh.
Sáu tháng trôi qua, một hôm tôi biết được tin có giới đàn, một buổi truyền giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và Sa di. Tôi biết được và tỏ vẻ háo hức lắm. Đi tu mà cứ mặc những chiếc áo màu lam hoài không có một chút gì màu vàng thì thật là buồn tẻ. Các chú Sa di, các thầy khi làm lễ đều có đắp y vàng nên trông thật đẹp, thật oai và ai cũng để ý, tôi thầm nghĩ như vậy, còn mình thì chỉ có màu lam thật là xấu hổ. Mang những ý niệm đó trong lòng, tôi đi gặp thầy để xin được thọ giới Sa di.
Sau khi mặc chiếc áo lam nhật bình cho ngay ngắn, tôi vào phòng thầy đảnh lễ thưa về ý định cầu xin thọ giới. Thầy bèn đáp lời mà không cần suy nghĩ: "chú còn sớm lắm chưa thể thọ giới được đâu! " Tôi cảm thấy thất vọng và buồn tiu nghỉu ra mặt. Thầy nhìn như cũng có chút cảm thông, nhưng rồi tấn kịch tôi đóng với vẻ mặt thiểu não cũng không làm thầy thay đổi ý định. Thầy nói phụ thêm: "vài tháng nữa có giới đàn khác thầy sẽ cho chú thọ giới". Tôi biết ý - thầy đã quyết định nên đảnh lễ mà lui ra.
Sau giới đàn lần ấy chú Thiện Phước, người sư huynh trước tôi, - mang về chiếc y còn mới tinh, chiếc y Sa di có một lằn sọc ở giữa, tượng trưng cho cái phước điền ít ỏi của người mới vào đạo. Còn tôi với chiếc áo lam như người cư sĩ đã chẳng có một chút sọc, tượng trưng cho chút ít phước điền nào. Tôi cũng chưa có chữ Thích ở đầu pháp danh nữa nên tuy được cạo tóc rồi, tôi vẫn chưa được xem là một người tu đúng nghĩa. Về giới luật tôi cũng chẳng có giới nào mới để giữ, ngoại trừ năm giới thông thường của người tại gia. Thế nên thấy thiên hạ thọ giới mà tôi lại không được thọ, nên cũng rất lấy làm ấm a ấm ức trong lòng: Cùng đợt xuất gia khi trước với chú Thiện thước còn có chú Thiện Thành, nhưng do vì không ở chùa và về nhà ở quá lâu nên trong đợt giới đàn này, mặc dù được thầy thương và chú cũng xin phép nhiều lần nhưng vẫn không được. Thầy tôi khó tính và gắt gao như vậy nên có lẽ điều này đã làm chú buồn không ít, một thời gian không lâu sau, chú ra ngoài đời.
Thế là tôi đã mất đi người bạn đạo đầu tiên trong cuộc đời, dù rằng thời gian quen và hiểu biết chú chẳng là bao, nhưng tôi cảm thấy như mình mất đi một cái gì thân thương và gần gũi nhất trong đời. Tôi thật sự cảm thấy rất buồn trong nhiều ngày. Đôi khi tôi cảm thấy ngỡ ngàng và hối tiếc làm sao, dù rằng việc chú ra đi đã chẳng phải là lỗi của tôi. Người tu ở hải ngoại này đã quá ít ỏi rồi, thế mà tôi lại mất đi, mất thêm một người bạn nữa. Chú Thiện Tín cũng cảm thấy buồn không ít qua việc này và rồi qua đó tự nhiên hai chúng tôi trong tình trạng không mấy thân lắm bỗng cảm thấy gần lại. Còn ai nữa đâu, chúng tôi chỉ còn có ba người mà.
Nổi buồn của thầy tôi vì mất đi một người đệ tử, đã không làm thầy bớt nghiêm khắc hơn thường lệ. Việc học của chúng tôi vẫn được thầy kèm sát nút. Các buổi học kinh, giới luật và nghi thức được thầy tận tình chỉ bảo, trong nhóm đệ tử có lẽ tôi là người cứng cổ nhất trong vấn đề học nghi lễ. Không hiểu cái thành kiến và ác cám về các nghi lễ tán tụng đến với tôi hồi nào, lúc học, không thể nào tôi cảm thấy vui được. Học những bài tán tụng và các cách đánh khánh, đánh chuông tôi cảm thấy như mình đang phải chịu một hình phạt nào đó. Thầy tinh ý nhận thấy và biết tôi không vui nên những lần học sau đó, tôi nghỉ học và thầy cũng chẳng la. Còn các thời khóa khác như thời Lăng Nghiêm buổi sáng, thì có mấy khi mà trốn thoát được với thầy. Hôm nào tôi cảm thấy mệt và hơi làm biếng không dậy để tụng là có chuyện ngay. Thường thì ngay sau buổi công phu sáng, là tới có điện báo mời vô phòng thầy làm việc. Những lúc ấy thầy không đánh hoặc mắng tôi khi thầy có đủ quyền của một vị thầy mà thầy chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo: "Sao hôm nay chú không tụng kinh, chú biết mình là người tu, thọ nhận của đàn na tín thí rất nhiều mà một việc tụng kinh buổi sáng mình cũng không làm được thì làm sao đáp trả ân ấy. Mình không khéo tu những kiếp sau, mình phải chịu quả báo mang lông đội sừng".
Lời thầy nói nhỏ nhẹ nhưng tôi cảm thấy thấm thía, đối với tôi nó còn có giá trị hơn những ngọn roi hoặc lời la mắng. Từ đó về sau tôi không dám bỏ buổi công phu tụng kinh buổi sáng nữa.
Một năm sau ngày xuất gia, tôi và chú Thiên Tín được thầy cho đi thọ giới Sa di. Đó là ngày tôi cảm thấy vui sướng nhiều nhất, vì ngày ấy là ngày tôi đã trông đợi từ sáu tháng trước. Nếu để dòng đời tự nhiên trôi thì thời gian sáu tháng có đáng là bao, so với cuộc xoay vần đêm ngày của vũ trụ; nhưng với tôi thời gian lúc ấy quả thật là một thời gian chịu đựng dài thăm thẳm. Tôi biết rằng sau buổi thọ giới này mình sẽ đổi khác, vì sự đổi khác đây không chỉ đổi khác là nơi tôi có thêm những giới luật mới