Kiến thức

Tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo Đại thừa (II)

Thứ hai, 05/03/2021 08:00

Tư tưởng Tịnh độ được lưu hành vào thời đại Bồ tát Long Thụ, đại để có thể chia làm ba loại: Tịnh độ Đâu Suất của Bồ tát Di Lặc; Tịnh độ Đông phương Diệu Hỷ của Phật A Súc; Tịnh độ Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà.

III. Các chủng loại Tịnh độ và sự lựa chọn

1. Tịnh độ Đâu Suất của Bồ tát Di Lặc

Bồ tát Di Lặc là Bồ tát nhất sinh bổ xứ của thế giới Sa bà. Hiện tại Ngài ở Nội Viện Đâu Suất, tương lai sẽ thị hiện ở thế gian này thành Phật hoá độ chúng sinh.

Trong các kinh “Di Lặc Thành Phật”, “Di Lặc Hạ Sinh” v.v... thuyết minh về việc Bồ tát Di Lặc hạ sinh xuống thế gian này, tu hành thành Phật. Trong thời gian dài khi chưa thành Phật, Ngài ở Nội Viện Đâu Suất giáo hoá chúng sinh. Đó chính là tịnh hoá cõi nước trời.

Trong kinh “Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ tát Thượng Sinh Đâu Suất Thiên” giới thiệu Tịnh độ Đâu Suất trang nghiêm thanh tịnh và khuyên mọi người vãng sinh Tịnh độ Đâu Suất, lấy việc xưng danh hiệu Bồ tát là một trong những điều kiện để vãng sinh.

Mục đích cầu sinh Tịnh độ Đâu Suất là để thân cận Bồ tát Di Lặc, tương lai sẽ theo Ngài xuống thế gian này, trợ giúp Ngài hoá độ chúng sinh nơi hội Long Hoa nhằm xây dựng cõi Tịnh độ ngay tại thế gian này.

Vãng sinh Tịnh độ Đâu Suất là tư tưởng có trong Phật giáo nguyên thuỷ. Đây cũng chính là nền tảng của tư tưởng vãng sinh Tịnh độ của Phật giáo Đại thừa.

Bồ tát Di Lặc là Bồ tát nhất sinh bổ xứ của thế giới Sa bà. Hiện tại Ngài ở Nội Viện Đâu Suất, tương lai sẽ thị hiện ở thế gian này thành Phật hoá độ chúng sinh.

Bồ tát Di Lặc là Bồ tát nhất sinh bổ xứ của thế giới Sa bà. Hiện tại Ngài ở Nội Viện Đâu Suất, tương lai sẽ thị hiện ở thế gian này thành Phật hoá độ chúng sinh.

Tinh thần dung hợp giữa Thiền tông và Tịnh độ

2. Tịnh độ Đông phương Diệu Hỷ của Phật A Súc

Tịnh độ của Phật A Súc là hình thức Tịnh độ của chư Phật, xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa. Các kinh điển nói đến vãng sinh cõi nước của Phật A Súc có: "A Súc Phật Quốc Kinh” - Chi Lâu Ca Sấm dịch; phẩm bất "Động Như Lai Hội” trong “Đại Bảo Tích Kinh” - Bồ Đề Lưu Chi dịch.

Trong các kinh đó đều thuyết minh về Phật A Súc, khi ở nhân địa tu Bồ tát hạnh làm một vị Tỷ kheo, đối trước Đức Phật Đại Nhật phát 39 đại nguyện, rồi chứa công góp đức, hoàn mãn đại nguyện đó mà thành Phật, xây dựng nên cõi Tịnh độ Diệu Hỷ ở phương đông.

Cõi nước đó thanh tịnh trang nghiêm, công đức vô lượng. Điều kiện để vãng sinh cõi nước Diệu Hỷ là tu Lục độ vạn hạnh của Bồ tát và quán chiếu Bát Nhã tính Không, kết hợp với xưng niệm thánh hiệu của chư Phật.

Thực chất Tịnh độ của Phật A Súc có quan hệ mật thiết với kinh Bát Nhã, kinh Duy Ma Cắt v.v... Kinh Bát Nhã xuất hiện ở đông Ấn Độ, trong kinh bàn đến Bồ tát Thường Đề hướng về phương đông cầu học diệu pháp Bát Nhã Ba La Mật (cõi Diệu Hỷ của Phật A Súc ở phương đông).

Kinh Bát Nhã coi trọng đại trí của Bồ tát, bàn đến tha phương Tịnh độ, tức lấy đông phương Tịnh độ làm đạt biểu. Trong phẩm "A Súc Phật Quốc” của kinh Duy Ma có chép: "Có nước tên Diệu Hỷ, Đức Phật hiệu là Vô Động (A Súc). Đó là nơi mà Duy Ma Cật ở đó sinh xuống cõi này”.

Lại nói: “Bấy giờ Đức Phật Thích Ca bảo đại chúng rằng: Các ngươi nên quan sát thế giới Diệu Hỷ và Bất Động Như Lai. Cõi nước đó trang nghiêm. Bồ tát thanh tịnh, đệ tử thanh bạch v.v… Nếu Bồ tát muốn được cõi nước Phật thanh tịnh như thế thì nên học cách hành đạo tu tập của Đức Bất Động Như Lai (A Súc)”.

Điều đó chứng tỏ kinh Bát Nhã và kinh Duy Ma Cật có quan hệ mật thiết với Tịnh độ của Phật A Súc. Đức Thế Tôn phổ khuyến đại chúng vãng sinh cõi nước Diệu Hỷ kia và thuyết minh sự thanh tịnh trang nghiêm thù thắng của cõi Tịnh độ A Súc.

Cõi nước đó thanh tịnh trang nghiêm, công đức vô lượng. Điều kiện để vãng sinh cõi nước Diệu Hỷ là tu Lục độ vạn hạnh của Bồ tát và quán chiếu Bát Nhã tính Không, kết hợp với xưng niệm thánh hiệu của chư Phật.

Cõi nước đó thanh tịnh trang nghiêm, công đức vô lượng. Điều kiện để vãng sinh cõi nước Diệu Hỷ là tu Lục độ vạn hạnh của Bồ tát và quán chiếu Bát Nhã tính Không, kết hợp với xưng niệm thánh hiệu của chư Phật.

Năng lực tâm từ thiết lập Tịnh độ nhân gian

3. Tịnh độ Tây phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà

Tư tưởng Tịnh độ A Di Đà trong thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ đã có manh nha nhưng phải đợi đến thời đại Bồ tát Long Thụ mới được truyền bá rộng ở ấn Độ và Tây Vực. Kinh điển chuyên bàn về Tịnh độ của Phật A Di Đà có ba loạt: 1 Đại thừa Vô Lượng Thọ Kinh; 2. Quán Vô Lượng Thọ Kinh; 3. Phật Thuyết A Di Đà Kinh.

Ngoài ra, những kinh điển có liên quan đến Tịnh độ Di Đà có đến hàng trăm bộ khác nhau. Đức Phật A Di Đà vì muốn độ thoát cho hết thảy chúng sinh khổ nạn, xứng tính phát khởi 48 đại nguyện, kiến lập thế giới Cực Lạc phương tây hết sức trang nghiêm, vi diệu thù thắng suốt đến tận vị lai tế rộng làm Phật sự hoá độ chúng sinh vãng sinh Cực Lạc.

Như trên đã nêu sơ lược ba loại Tịnh độ đều có những đặc sắc nhất định. Trong quá trình hình thành và phát triển, tư tưởng Tịnh độ A Di Đà được tiếp thu và phát triển rực rỡ, còn Tịnh độ A Súc và Tịnh độ Di Lặc dần dần mai một. Nguyên nhân trong đó là vấn đề lý luận của Tịnh độ tông thích ứng với căn cơ thời đại nên được nhiều người thâm nhập, nghiên cứu và tu tập. Ở đây tạm nêu ra hai vấn đề để xem xét:

- Một là: Từ mức độ thanh tịnh trang nghiêm của Tịnh độ mà xét, ta thấy Tịnh độ A Súc và Tịnh độ Di Lặc, tuy cũng đầy đủ y báo, chính báo trang nghiêm do đại nguyện, đại hạnh của Phật, Bồ tát mà tạo thành, song nó vẫn thấy còn có dấu vết của nhân gian thế tục không hoàn toàn siêu việt thù thắng.

Ví dụ như ở hai cõi Tịnh độ đó vẫn có nam nữ tạp cư, phiền não không dễ gì đoạn sạch vi tế vô minh vẫn thường hiện hành. Tây phương Cực Lạc thế giới chủng chủng tiếng nghiêm, đó là rốt ráo vi diệu. Cõi nước đó chúng sinh đều đầy đủ tướng trượng phu như Phật A Di Đà không khác, không có tướng nam nữ.

Do nguyện lực của Phật gia trì, cảnh giới và nhân duyên thanh tịnh nên tuy phiền não chưa đoạn sạch nhưng không thể phát khởi ra hiện hành. Ở cõi nước đó tu hành sẽ dần dần phục đoạn phiền não, không phải trải qua đời kiếp khác mà vẫn thành tựu quả vi Phật.

Mặt khác, do nguyện lực của Phật Di Đà gia bị, hành giả vãng sinh cũng có “vô lượng thọ, vô lượng quang” như Phật không khác, đầy đủ thần thông trí tuệ, dẫu còn là phàm phu nhưng vẫn có thể thụ dụng tự tại như Phật.

Đối với những điều này thì ở Tịnh độ Di Lặc và Tịnh độ A Súc không có được. Và ngay cả cõi nước của mười phương chư Phật cũng không thể có được. Đây chính là một đặc điểm quan trọng của cõi Cực Lạc Phương Tây.

Tư tưởng Tịnh độ A Di Đà trong thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ đã có manh nha nhưng phải đợi đến thời đại Bồ tát Long Thụ mới được truyền bá rộng ở ấn Độ và Tây Vực.

Tư tưởng Tịnh độ A Di Đà trong thời kỳ Phật giáo nguyên thuỷ đã có manh nha nhưng phải đợi đến thời đại Bồ tát Long Thụ mới được truyền bá rộng ở ấn Độ và Tây Vực.

Tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo Đại thừa (I)

- Hai là: Từ điều kiện vãng sinh Tịnh độ để xem xét, ta thấy điều kiện vãng sinh Tịnh độ Di Lặc và Tịnh độ A Súc là rất cao. Thành tựu “Duy thức tâm định” mới có thể sinh đến Tịnh độ Di Lặc; tu tập Bát Nhã không quán và lục độ ba la mật mới đủ tư cách sinh đến Tịnh độ A Súc.

Điều đó chủ yếu dựa vào tự lực, tích luỹ tư lương mà không có phương tiện Phật lực tiếp dẫn. Do đó, chỉ có bậc thượng căn lợi trí siêng năng tinh tiến tu hành mới có hy vọng vãng sinh. Đối với đại đa số chúng sinh phàm phu trung hạ căn thì chẳng khác gì người yếu đứng ngước nhìn núi cao, chỉ là không tưởng mà thôi.

Còn điều kiện để vãng sinh cõi Tịnh độ Cực Lạc của Đức A Di Đà thì hết sức giản dị và thích hợp Do Đức Phật A Di Đà có “Thập niệm tất sinh nguyện” và “Lâm chung tiếp dẫn nguyện” gia bị nên hành giả chỉ cần có Tín - Nguyện - Trì danh là có thể đổi nghiệp vãng sinh.

Khi lâm chung được Phật Di Đà hiện ngay trước mặt tiếp dẫn, khiến hành giả thong thả nhẹ nhàng vãng sinh nước Phật. Đức Phật A Di Đà có công đức chẳng thể nghĩ bàn như thế, cho nên được mười phương chư Phật, khác miệng đồng lời cùng xưng dương tán thán, khuyên chúng sinh phát khởi tín tâm cầu sinh Cực Lạc. Bởi vậy “ngàn kinh vạn luận cùng chỉ lối về Cực Lạc, cổ Thánh tiên Hiền thảy đều xu hướng pháp môn Tịnh độ”.

Tịnh độ Tây phương được hình thành ở Ấn Độ đầu tiên rồi được truyền bá vào Trung Quốc, Việt Nam và phát triển một cách rực rỡ, sáng lan cho mãi tới ngày nay.

Có thể nói: tín ngưỡng Tịnh độ Di Đà đã thừa kế được tư tưởng Phật giáo Đại thừa của Ấn Độ, kết tinh được tinh thần Bi - Trí độ sinh của hai Đức Thế Tôn là Thích Ca và Di Đà, cho đến mười phương chư Phật.

loading...