Đức Phật
Tưởng niệm cố Trưởng lão Hoà Thượng Thích Hành Trụ
Thứ bảy, 25/11/2019 02:08
Hòa thượng sinh ngày 15-2-1903 tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trong một gia đình phúc đức thuần hậu, nhiều đời thâm tín Tam bảo. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Gia đình có 3 người con trai đều xuất gia tu hành giải thoát.
Tiểu sử Cố Trưởng Lão Hoà Thượng Thích Hành Trụ
Hòa thượng Thích Hành Trụ (1903-1984), là bậc cao Tăng với cao đức và phẩm hạnh viên đầy của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngài có công đức rất lớn trong nhiệm vụ giáo dục đào tạo nhiều thế hệ Tăng tài và truyền thừa chính pháp qua việc phiên dịch, ấn hành nhiều kinh luật phổ biến, hoằng dương Phật pháp, hướng dẫn tu tập cho tứ chúng, khai sơn các tòng lâm, tiếp Tăng độ chúng không mệt mỏi. Sau 36 năm vắng bóng nhưng hình ảnh của Hòa thượng vẫn còn in đậm trong tâm trí của giới Tăng Ni, Phật tử đã từng biết hoặc nghe qua danh của ngài với tất cả tấm lòng cung kính và niềm tri ân sâu sắc.
Ngày 29 tháng 10 âm lịch hàng năm, chư Tăng Ni của rất nhiều tự viện và Phật tử từ khắp các nơi tề tựu về Tổ đình Đông Hưng Q2, Tp.Hồ Chí Minh với lòng thành kính tri ân và tưởng niệm lễ húy kỵ của ngài. Do vậy, việc tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp hoằng dương chánh pháp của ngài là điều không thể thiếu được đối với những người học Phật.
Hòa thượng thế danh Lê An, pháp danh Thị An, tự Hành Trụ, hiệu Phước Bình, thuộc dòng phái Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42.
Hòa thượng sinh ngày 15-2-1903 tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trong một gia đình phúc đức thuần hậu, nhiều đời thâm tín Tam bảo. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Gia đình có 3 người con trai đều xuất gia tu hành giải thoát.
Thuở ấu thơ, chí hướng xuất trần đã sớm phát sinh nơi tâm hồn son trẻ, nên ngài thích theo song thân lên chùa lễ Phật nghe kinh và càng ngày lòng mộ đạo của ngài càng thêm tăng trưởng. Năm 12 tuổi xuất gia, 19 tuổi về nương tựa Hòa thượng bổn sư Như Đắc, chùa Phước Sơn, thọ tam đàn Cụ túc giới năm 22 tuổi. Hòa thượng đã được học và thông thạo cả hai phương diện Quốc văn và Nội điển.
Với phong cách đĩnh đạc và say mê học hỏi, ngài đã trau giồi kinh luật nội điển ở hầu hết các trường hạ. Khóa học được tổ chức bấy giờ ở khắp các đạo tràng chùa Thiên Phước (Thủ Đức) năm 1934; đạo tràng Tổ đình Bát Nhã (Phú Yên) năm 1935... Gặp lúc phong trào chấn hưng Phật giáo đang phát triển, Hòa thượng vào Nam tham học ở Thích Học Đường Lưỡng Xuyên do các Hòa thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Huệ Quang lãnh đạo.
Hòa thượng từng được thọ giáo với các bậc cao minh như Trưởng lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết (Tổ đình Tường Vân, Huế), Đại lão Hòa thượng Thích Giác Nhiên (Tổ đình Thiền Tôn), Trưởng lão Hòa thượng Phước Huệ (Tổ đình Thập Tháp), bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám (Phật học đường Tây Thiên)…Bắt đầu từ đây, Hòa thượng noi gương chư Tổ, phát tâm đại bi, lấy việc tiếp chúng độ Tăng, hoằng dương Phật pháp làm chánh yếu, ngược xuôi giảng dạy Phật pháp, hướng dẫn tu tập cho tứ chúng, khai sơn các tòng lâm, tiếp Tăng độ chúng không mệt mỏi.
Năm 1936, ngài được tiến cử làm Giáo Thọ sau khóa trường Hương do Hội Lưỡng Xuyên Phật Học tổ chức tại chùa Long Phước ở Vĩnh Long. Sau đó, ngài được cử ra Huế học tại Phật học đường chùa Tường Vân, rồi đến chùa Tây Thiên với học Tăng của cả ba miền tham dự, do Quốc Sư Phước Huệ làm Pháp Chủ giảng dạy.
Năm 1940, vì bệnh trầm trọng, ngài phải trở vào Nam điều trị và ở lại giảng dạy tại Ni trường chùa Kim Sơn Phú Nhuận.Năm 1942, ngài được Tỉnh Khánh Hòa bổ về Sóc Trăng làm Giáo Thọ giảng dạy ở chùa Hiệp Châu, chi hội Kế Sách của Hội Lưỡng Xuyên Phật Học và chùa Viên Giác tại Vĩnh Long.
Năm 1945, ngài được Hòa thượng Vạn An đưa về làm Giáo Thọ giảng dạy tại chùa Hội Phước, Nha Mân tỉnh Sa Đéc. Trong thời gian ấy, ngài làm Đệ nhất Yết Ma trong Đại Giới Ðàn chùa An Phước, Châu Đốc. Sau đó, ngài về chùa Long An ở Sa Đéc, tại đây đã kết nghĩa pháp đạo huynh đệ cùng ba vị Khánh Phước, Thới An, Thiện Tường và mở Phật Học Ðường. Chư Tăng khắp lục tỉnh hội tụ về tu học rất đông. Xuất thân từ đây có các Hòa Thượng Từ Nhơn, Hòa thượng Huệ Hưng....
Năm 1946, ngài với ba vị sư đệ kết nghĩa lên Sài Gòn hợp nhau lập chùa Tăng Già, hiện nay là chùa Kim Liên, để tiếp độ chúng Tăng tựu về học. Đây là Phật Học Ðường đầu tiên ở đất Sài Gòn trong phong trào chấn hưng Phật giáo, mở đường cho các Phật học viện sau này phát triển.
Năm 1947, ngài lại cùng ba vị sư đệ dựng nên ngôi già lam thứ hai là chùa Giác Nguyên để chuyển chư Tăng về đây tu học, chùa Tăng Già biến thành trường Phật học dành cho Ni chúng, ngày nay là chùa Kim Liên Q4. Hai đạo tràng này ngày thêm vang tiếng và Tăng Ni khắp nơi về học rất đông, góp phần rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại đất Sài Gòn lúc bấy giờ. Ngài đảm nhiệm Giám Ðốc Phật học đường Giác Nguyên và Hóa Chủ Phật học Ni trường Tăng Già.
Năm 1948, ngài mở Đại Giới Ðàn tại Phật học đường Giác Nguyên để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni thọ trì tu học. Sau đó, ngài được đề cử làm Trưởng Ban Nghi Lễ của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt vào năm 1951, làm chứng minh Đạo Sư Hội Phật Học Nam Việt tại chùa Xá Lợi Sài Gòn cho đến cuối đời (1956 - 1984), và làm Trưởng Đoàn Phật Giáo Việt Nam tham dự Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới kỳ 4 tại Nam Vang năm 1957.
Năm 1963, ngài khai mở Phật học đường Chánh Giác tại chùa Chánh Giác ở Gia Định do ngài làm giám đốc kiêm trụ trì. Sau đó ngài về trụ trì thêm chùa Đông Hưng ở Thủ Thiêm và chọn nơi này làm chốn tĩnh tu nhập thất vào những mùa An Cư Kiết Hạ. Năm 1967 - 1969, ngài làm Giới Sư các Đại Giới Ðàn Hải Đức ở Phật học viện Hải Đức (Nha Trang) và Quảng Đức ở Phật học viện Huệ Nghiêm (Sài Gòn).
Năm 1975, 1977 - 1980, liên tiếp ngài làm Đàn Ðầu Hòa Thượng các Đại Giới Ðàn tại chùa Ấn Quang do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mở ra để truyền trao giới pháp cho giới tử toàn quốc.
Từ năm 1977 - 1981, ngài kiêm chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập, ngài được cung thỉnh vào làm thành viên Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương.
Nhận thấy thời gian đồng hành với lão bệnh, phát sinh nơi thân tứ đại, từ năm 1976 trở đi, ngài phát nguyện nhập thất an tịnh cho đến khi về cõi Phật. Vào ngày 29 tháng 10 năm Giáp Tý, nhằm ngày 21-11-1984, huyễn thân ngài nhẹ nhàng chuyển hóa. Ngài trụ thế 81 năm, được 59 hạ lạp. Ngài có công đức rất lớn trong nhiệm vụ giáo dục đào tạo nhiều thế hệ tăng tài, và truyền thừa chính pháp qua việc phiên dịch, ấn hành nhiều kinh luật phổ biến với các tác phẩm để lại như:
- Sa Di Luật Giải.
- Qui Sơn Cảnh Sách.
- Tứ Phần Giới Bổn Như Thích.
- Phạm Võng Bồ Tát Giới.
- Kinh A Di Đà Sớ Sao.
- Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên.
- Kinh Hiền Nhân.
- Kinh Trừ Khủng Tai Hoạn.
- Tỳ Kheo Giới Kinh.
- Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn.
- Long Thơ Tịnh Độ.
- Sơ Đẳng Phật Học Giáo Khoa Thư.
- Nghi Thức Lễ Sám.
- Kinh Thi Ca La Việt.
- Sự Tích Phật Giáng Thế.
Sự viên tịch của ngài đã để lại trong tâm tưởng của những người thuộc thế hệ đương thời và hậu thế một niềm tri ân vô hạn bởi một sự nghiệp hoằng pháp độ sanh vô cùng lớn lao tràn đầy lòng từ bi và trí tuệ.
Nhất tâm đảnh lễ Đông Hưng đường thượng Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ thập nhị thế Pháp huý thượng Thị hạ An ,tự Hành Trụ , hiệu Phước Bình đại lão Hoà thượng Giác Linh nghê toà chứng giám./.