Lời Phật dạy
Ứng dụng Lời Phật dạy trong đời sống xã hội
Thứ năm, 15/01/2016 02:34
Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”.
Xã hội là gì? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về việc định nghĩa xã hội. Nói chung thì xã hội là một cộng đồng sống trong một quy chế, cùng hưởng một số thành quả từ các dạng sản xuất, ảnh hưởng chung một số tập quán, tín ngưỡng, chịu chung một số hệ quả bất cập, dĩ nhiên phải có tinh thần trách nhiệm tập thể, bị chi phối bởi luật định... và đôi khi cũng bị tác động một phần nào đó của một vài đột biến từ một vài cá nhân.
Với một xã hội được hiểu như thế, điều tất yếu không thể tránh là xã hội vẫn bị tác hưởng bởi một số thành phần vượt ra ngoài sinh hoạt tự nhiên. Nếu những thành phần tối ưu trí tuệ thì xã hội ắt sẽ chung hưởng hiệu quả tốt do sản phẩm trí tuệ đó đem lại, và ngược lại có những thành phần bất hảo, cũng trở thành một tệ nạn khó lường cho một số chịu ảnh hưởng, nếu không kịp thời ngăn chận hoặc cá nhân không tự ý thức chối bỏ, tệ nạn lan tỏa sẽ trở thành một xã hội đen. Một xã hội bất an cho những người khác không cùng một khuynh hướng đó.
Chính mang tính đa diện trong một xã hội như thế mà các đạo lý của nhiều học thuyết, tôn giáo, tín ngưỡng ra đời để hoàn thiện những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực. Riêng Phật giáo, Tam tạng Thánh điển không ngoài mục đích xây dựng con người hoàn hảo mà còn là nền tảng cho một xã hội bền vững về hạnh phúc, đạo đức trong giao tế, nghiệp vụ được chân chính...
Trong kinh tạng A-hàm, theo bản dịch Việt từ Hán mới nhất của Thượng tọa Tuệ Sỹ thì Kinh Thiện Sanh thuộc No.16, Phần II, Trường A-hàm. Trong tạng Nikaya, theo bản dịch Việt từ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu, tương đương kinh Thiện Sanh là Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc No.31, Trường Bộ Kinh: Tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản.
Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng hai ngàn năm trăm vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tử tên Thiện Sanh đang lễ sáu phương, Ngài hỏi:
“Vì sao, ngươi vào buổi sáng sớm ra khỏi thành, đi đến khu công viên, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”
Thiện Sinh bạch Phật:
“Khi cha con sắp chết có dặn: “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con vâng lời cha dạy không dám chống trái.”
Phật bảo Thiện Sinh:
“Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp Hiền Thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu.”
Thiện Sinh thưa: “Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp Hiền Thánh.”
Phật bảo Thiện Sinh: “Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”.
Bốn nghiệp mà phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta vẫn thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: Giết người, cướp của... gây cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều mà Phật dạy chẳng có gì khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế gian.
Bốn trường hợp khác: Tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si... Loại tham dục này thì cần phải loại bỏ. Loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp... cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc... thì cần thực hành và phát huy.
Sáu nghiệp hao tổn tài sản cần tránh:
1.Đam mê rượu chè.
2. Cờ bạc.
3. Phóng đãng.
4. Đam mê kỹ nhạc.
5. Kết bạn người ác.
6. Biếng lười.
Phật bảo Thiện Sinh:
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp, cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện”.
Như vậy, Phật dạy người nào tránh được bốn nghiệp kết, bốn việc ác, sáu nghiệp hao tổn tài sản thì không những đời này đẹp và cả đời sau cũng được hưởng những quả tốt đẹp, đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ...
Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân:
Trong Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân có thuật lại tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kỳ, một tình bạn đẹp lưu danh muôn thuở. Bá Nha là một vị quan làm đến chức Thượng đại phu, còn Tử kỳ chỉ là một chàng nông dân kém Bá Nha chục tuổi. Nhưng chỉ mỗi Bá Nha hiểu được tiếng đàn của Tử Kỳ, từ đó hai người trở thành tri kỷ. Khi nghe tin Tử Kỳ chẳng may qua đời, Bá Nha đã cầm đờn đập mạnh vào tảng đá, cây đờn vỡ tan, sau đó đọc bốn câu thơ:
Trong cuộc sống ai cũng cần có bạn, tình bạn kiểu Bá Nha – Tử Kỳ thuộc dạng xưa nay hiếm, nhưng cũng cần phải lựa bạn tốt mà chơi, vì nếu “giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1, tìm cách lừa dối; 2, ưa chỗ thầm kín; 3, dụ dỗ vợ người; 4, mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người; 5, xoay tài lợi về mình; 6, ưa phanh phui lỗi người”. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
Phật bảo Thiện Sinh: “Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1, hạng uý phục; 2, hạng mỹ ngôn; 3, hạng kính thuận; 4, hạng ác hữu.
[(1) “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: Một, cho trước đoạt lại sau; hai, cho ít mong trả nhiều; ba, vì sợ gượng làm thân; bốn, vì lợi gượng làm thân.
(2) “Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: Một, lành dữ đều chiều theo; hai, gặp hoạn nạn thì xa lánh; ba, ngăn cản những điều hay; bốn, thấy gặp nguy tìm cách đùn đẩy.
(3) “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: Một, việc trước dối trá; hai, việc sau dối trá; ba, việc hiện dối trá; bốn, thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt”.
(4) “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: Một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.”
“Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? Một, ngăn làm việc quấy; hai, thương yêu; ba, giúp đỡ; bốn, đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận”.
[(1) Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(2) Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(3) Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: Che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.
(4) Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: Không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của cải với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.”]
Lễ bái sáu phương hay cách thức xây dựng một xã hội hạnh phúc:
Sáu phương là gì, tại sao phải lễ bái sáu phương như chàng Thiện Sanh đã làm, anh ta làm vì nghe lời cha mà không hiểu ý nghĩa của việc lễ bái đó. Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”. Bài dạy lễ sáu phương là cách mà Phật dạy đạo làm người.
Kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều:
1. Cung phụng không để thiếu thốn.
2. Muốn làm gì thưa cha mẹ biết.
3. Không trái điều cha mẹ làm.
4. Không trái điều cha mẹ dạy.
5. Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm.
Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái:
1. Ngăn con đừng để làm ác.
2. Chỉ bày những điều ngay lành.
3. Thương yêu đến tận xương tủy.
4. Chọn nơi hôn phối tốt đẹp.
5. Tùy thời cung cấp đồ cần dùng.
Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ, cha mẹ thương con, bảo bọc cho con thế thì gia đình ấy được hạnh phúc, xã hội bình an, phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.
Đạo nghĩa thầy trò
Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm điều:
1. Hầu hạ cung cấp điều cần.
2. Kính lễ cúng dường.
3. Tôn trọng quí mến.
4.Thầy có dạy bảo điều gì không trái nghịch.
5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy.
Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử:
1. Tùy thuận pháp mà huấn luyện.
2. Dạy những điều chưa biết.
3. Giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi.
4. Chỉ cho những bạn lành.
5. Dạy hết những điều mình biết không lẫn tiếc.
Nếu đệ tử kính thuận, cung kính nghe lời sư trưởng, thầy thì thương trò, chỉ bảo dạy dỗ tận tình cho học trò thì nền giáo dục xã hội ấy phát triển, phương ấy vững bền, an ổn không có điều lo sợ.
Đạo nghĩa vợ chồng
Chồng phải có năm điều đối với vợ:
1. Lấy lễ đối đãi nhau.
2. Oai nghiêm không nghiệt.
3. Tùy thời cung cấp y, thực.
4. Tùy thời cho trang sức.
5. Phó thác việc nhà.
Vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng:
1. Dậy trước.
2. Ngồi sau.
3. Nói lời hòa nhã.
4. Kính nhường tùy thuận.
5. Đón trước ý chồng.
“Chồng đối với vợ thương yêu, tôn trọng, vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Quan hệ bạn bè tình nghĩa làng xóm
Người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con:
1. Chu cấp.
2. Nói lời hiền hòa.
3. Giúp ích.
4. Đồng lợi.
5. Không khi dối.
Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại:
1. Che chở cho mình khỏi buông lung.
2. Che chờ cho mình khòi hao tài vì buông lung.
3. Che chở khỏi sự sợ hải.
4. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người.
5. Thường ngợi khen nhau.
“Tình người, tình làng nghĩa xóm, biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ”.
Quan hệ chủ tớ trên dưới
Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo:
1. Tùy khả năng mà sai sử.
2. Tùy thời cho ăn uống.
3. Phải thời thưởng công lao.
4. Thuốc thang khi bệnh.
5. Cho có thời giờ nghỉ ngơi.
Tôi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ:
1. Dậy sớm.
2. Làm việc chu đáo.
3. Không gian cắp.
4. Làm việc có lớp lang.
5. Bảo tồn danh giá chủ.
“Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ”.
Quan hệ giữa đàn việt và sa môn
Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn với năm điều:
1. Thân hành từ.
2. Khẩu hành từ.
3. Ý hành từ.
4. Tùy thời cúng thí.
5. Không đóng cửa khước từ.
Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo sáu điều:
1. Ngăn ngừa chớ để làm ác.
2. Chỉ dạy điều lành.
3. Khuyên dạy với thiện tâm.
4. Cho nghe những điều chưa nghe.
5. Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ.
6. Chỉ vẻ con đường sinh thiên.
“Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.”
Đọc toàn bộ nội dung kinh, một bản kinh ngắn, súc tích, ngôn ngữ Phật dùng rất rõ ràng mà bất cứ ai đọc cũng có thể nắm bắt, lời dạy như luồng sáng mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy, rất thiết thực, căn bản, rất cần cho chúng ta trong ứng xử với các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống.
Các pháp đều nương với nhau mà tồn tại, cũng vậy, mỗi người trong cuộc sống cũng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm về một điều gì đó với một ai đó, mỗi một ai đó sẽ là phần còn lại về nghĩa vụ và trách nhiệm của người nào đó, suy ra sẽ nhìn thấy một ma trận ngang dọc, ma trận vuông tròn các quan hệ. Quan hệ cha mẹ, con cái, ai cũng ít nhất một lần làm học trò, ai cũng ít nhất có một người bạn, ai cũng phải làm một việc gì đó để sống... vì vậy cần phải ứng xử sao cho hợp đạo hợp nghĩa, đúng mực để tự bảo vệ bản thân tức là bảo vệ cho gia đình, cho xã hội.
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế, như đời: “Đường hai nẻo xuống lên”.
Qua bản kinh Thiện Sanh trên đây, và chỉ cần một bản kinh duy nhất nầy đủ cho ta thấy nền tảng căn bản đạo làm người để có một xã hội nề nếp ổn định và hạnh phúc.
Đạo hiếu làm con, phận làm cha mẹ - Đạo nghĩa thầy trò - Đạo nghĩa vợ chồng - Quan hệ bạn bè, tình làng nghĩa xóm - Quan hệ chủ tớ, trên dưới - Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn. Những điều khuyến giáo này giúp những người tin Phật có ý thức nhiệm vụ, bổn phận đối với cuộc sống từ gia đình đến xã hội, thực hiện nghiêm túc, làm sao gia đình không thuận hòa, xã hội không nề nếp trật tự?
Tuy hiện nay phần lớn các quốc gia đang đối diện với nhiều vấn đề bất an về trật tự, xáo trộn về chính trị, xuống cấp về đạo đức, nhưng, một vài quốc gia lấy Phật giáo làm quốc đạo như Myanmar, Bhutan đã duy trì được nếp sống an hòa, trật tự, đạo đức xã hội gắn liền với đạo đức tôn giáo, cuộc sống vật chất tuy không sung túc nhưng nguồn hạnh phúc tinh thần của người dân luôn ổn định an lành. GDP của họ không căn cứ vào nguồn lợi vật chất mà căn cứ vào nguồn hạnh phúc của người dân.
Ngoài những điều cơ bản xây dựng tinh thần trách nhiệm với nhau của kinh Thiện Sinh, Toàn bộ Tam Tạng của Phật giáo đều huấn chỉnh con người theo tiêu chí nghiêm túc. Luật áp dụng cho tập thể, giới để điều hướng cá nhân. Một người tự nguyện sống đúng theo lời Phật dạy là một nhân tố hoàn hảo cho xã hội. Một tập thể tin Phật, hành theo lời Phật thì tập thể đó là một cộng đồng tốt cho xã hội. Xã hội không cần áp đặt luật pháp,tù giam hay bất cứ hình thức răn đe nào đối với những tập thể như thế. Ngược lại, những thành phần bất hảo trong xã hội là thành phần thiếu hàm dưỡng đạo đức của nhà Phật, cho dù luật pháp, tù giam hay bất cứ hình thức răn đe nào cũng khó mà chuyển hóa tội phạm, có chăng, chỉ là tạm lắng để chờ cơ hội bộc phát, vì hạt giống xấu ác vẫn tiềm phục trong tâm thức. Chỉ có tự thân ý thức, giác ngộ chuyển hóa hạt giống xấu thành hạt giống tốt thì phạm nhân mới trở thành Thánh nhân, người xấu mới thành người tốt. Muốn chuyển hóa được như thế, phải có phương cách giáo dục bằng tình thương và sự chăm sóc. Đạo đức học trong nhà Phật có những câu có thể giúp chúng ta tự chuyển hóa như:
Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao bạn lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao bạn phải chứa đầy những não phiền như vậy?
Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.
Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.
Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.
Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân.
Khi bạn thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối bạn.
Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.
Đấy, nhà Phật còn biết bao lời hay ý đẹp đủ để chuyển hóa con người nếu con người can đảm chấp nhận Phật giáo. Thế thì biết ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống thì nhân thân trở thành điểm son cho xã hội, và xã hội sẽ là một cộng đồng để chúng ta muốn sống.
Minh Mẫn
Với một xã hội được hiểu như thế, điều tất yếu không thể tránh là xã hội vẫn bị tác hưởng bởi một số thành phần vượt ra ngoài sinh hoạt tự nhiên. Nếu những thành phần tối ưu trí tuệ thì xã hội ắt sẽ chung hưởng hiệu quả tốt do sản phẩm trí tuệ đó đem lại, và ngược lại có những thành phần bất hảo, cũng trở thành một tệ nạn khó lường cho một số chịu ảnh hưởng, nếu không kịp thời ngăn chận hoặc cá nhân không tự ý thức chối bỏ, tệ nạn lan tỏa sẽ trở thành một xã hội đen. Một xã hội bất an cho những người khác không cùng một khuynh hướng đó.
Chính mang tính đa diện trong một xã hội như thế mà các đạo lý của nhiều học thuyết, tôn giáo, tín ngưỡng ra đời để hoàn thiện những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực. Riêng Phật giáo, Tam tạng Thánh điển không ngoài mục đích xây dựng con người hoàn hảo mà còn là nền tảng cho một xã hội bền vững về hạnh phúc, đạo đức trong giao tế, nghiệp vụ được chân chính...
Trong kinh tạng A-hàm, theo bản dịch Việt từ Hán mới nhất của Thượng tọa Tuệ Sỹ thì Kinh Thiện Sanh thuộc No.16, Phần II, Trường A-hàm. Trong tạng Nikaya, theo bản dịch Việt từ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu, tương đương kinh Thiện Sanh là Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc No.31, Trường Bộ Kinh: Tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản.
Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng hai ngàn năm trăm vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tử tên Thiện Sanh đang lễ sáu phương, Ngài hỏi:
“Vì sao, ngươi vào buổi sáng sớm ra khỏi thành, đi đến khu công viên, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”
Thiện Sinh bạch Phật:
“Khi cha con sắp chết có dặn: “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con vâng lời cha dạy không dám chống trái.”
Phật bảo Thiện Sinh:
“Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp Hiền Thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu.”
Thiện Sinh thưa: “Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp Hiền Thánh.”
Phật bảo Thiện Sinh: “Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”.
Bốn trường hợp khác: Tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si... Loại tham dục này thì cần phải loại bỏ. Loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp... cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc... thì cần thực hành và phát huy.
Sáu nghiệp hao tổn tài sản cần tránh:
1.Đam mê rượu chè.
2. Cờ bạc.
3. Phóng đãng.
4. Đam mê kỹ nhạc.
5. Kết bạn người ác.
6. Biếng lười.
Phật bảo Thiện Sinh:
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp, cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện”.
Như vậy, Phật dạy người nào tránh được bốn nghiệp kết, bốn việc ác, sáu nghiệp hao tổn tài sản thì không những đời này đẹp và cả đời sau cũng được hưởng những quả tốt đẹp, đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ...
“Người nào không làm ác,
Do tham, hận, sợ, si,
Thì danh dự càng thêm,
Như trăng hướng về rằm”.
Trong Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân có thuật lại tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kỳ, một tình bạn đẹp lưu danh muôn thuở. Bá Nha là một vị quan làm đến chức Thượng đại phu, còn Tử kỳ chỉ là một chàng nông dân kém Bá Nha chục tuổi. Nhưng chỉ mỗi Bá Nha hiểu được tiếng đàn của Tử Kỳ, từ đó hai người trở thành tri kỷ. Khi nghe tin Tử Kỳ chẳng may qua đời, Bá Nha đã cầm đờn đập mạnh vào tảng đá, cây đờn vỡ tan, sau đó đọc bốn câu thơ:
“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai?
Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn,
Muốn tìm tri âm, thật khó thay!”
Phật bảo Thiện Sinh: “Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1, hạng uý phục; 2, hạng mỹ ngôn; 3, hạng kính thuận; 4, hạng ác hữu.
[(1) “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: Một, cho trước đoạt lại sau; hai, cho ít mong trả nhiều; ba, vì sợ gượng làm thân; bốn, vì lợi gượng làm thân.
(2) “Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: Một, lành dữ đều chiều theo; hai, gặp hoạn nạn thì xa lánh; ba, ngăn cản những điều hay; bốn, thấy gặp nguy tìm cách đùn đẩy.
(3) “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: Một, việc trước dối trá; hai, việc sau dối trá; ba, việc hiện dối trá; bốn, thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt”.
(4) “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: Một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.”
“Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? Một, ngăn làm việc quấy; hai, thương yêu; ba, giúp đỡ; bốn, đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận”.
[(1) Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(2) Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(3) Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: Che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.
(4) Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: Không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của cải với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.”]
Lễ bái sáu phương hay cách thức xây dựng một xã hội hạnh phúc:
Sáu phương là gì, tại sao phải lễ bái sáu phương như chàng Thiện Sanh đã làm, anh ta làm vì nghe lời cha mà không hiểu ý nghĩa của việc lễ bái đó. Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”. Bài dạy lễ sáu phương là cách mà Phật dạy đạo làm người.
Kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều:
1. Cung phụng không để thiếu thốn.
2. Muốn làm gì thưa cha mẹ biết.
3. Không trái điều cha mẹ làm.
4. Không trái điều cha mẹ dạy.
5. Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm.
Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái:
1. Ngăn con đừng để làm ác.
2. Chỉ bày những điều ngay lành.
3. Thương yêu đến tận xương tủy.
4. Chọn nơi hôn phối tốt đẹp.
5. Tùy thời cung cấp đồ cần dùng.
Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ, cha mẹ thương con, bảo bọc cho con thế thì gia đình ấy được hạnh phúc, xã hội bình an, phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.
Đạo nghĩa thầy trò
Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm điều:
1. Hầu hạ cung cấp điều cần.
2. Kính lễ cúng dường.
3. Tôn trọng quí mến.
4.Thầy có dạy bảo điều gì không trái nghịch.
5. Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy.
Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử:
1. Tùy thuận pháp mà huấn luyện.
2. Dạy những điều chưa biết.
3. Giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi.
4. Chỉ cho những bạn lành.
5. Dạy hết những điều mình biết không lẫn tiếc.
Nếu đệ tử kính thuận, cung kính nghe lời sư trưởng, thầy thì thương trò, chỉ bảo dạy dỗ tận tình cho học trò thì nền giáo dục xã hội ấy phát triển, phương ấy vững bền, an ổn không có điều lo sợ.
Đạo nghĩa vợ chồng
Chồng phải có năm điều đối với vợ:
1. Lấy lễ đối đãi nhau.
2. Oai nghiêm không nghiệt.
3. Tùy thời cung cấp y, thực.
4. Tùy thời cho trang sức.
5. Phó thác việc nhà.
Vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng:
1. Dậy trước.
2. Ngồi sau.
3. Nói lời hòa nhã.
4. Kính nhường tùy thuận.
5. Đón trước ý chồng.
“Chồng đối với vợ thương yêu, tôn trọng, vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Quan hệ bạn bè tình nghĩa làng xóm
Người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con:
1. Chu cấp.
2. Nói lời hiền hòa.
3. Giúp ích.
4. Đồng lợi.
5. Không khi dối.
Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại:
1. Che chở cho mình khỏi buông lung.
2. Che chờ cho mình khòi hao tài vì buông lung.
3. Che chở khỏi sự sợ hải.
4. Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người.
5. Thường ngợi khen nhau.
“Tình người, tình làng nghĩa xóm, biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ”.
Quan hệ chủ tớ trên dưới
Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo:
1. Tùy khả năng mà sai sử.
2. Tùy thời cho ăn uống.
3. Phải thời thưởng công lao.
4. Thuốc thang khi bệnh.
5. Cho có thời giờ nghỉ ngơi.
Tôi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ:
1. Dậy sớm.
2. Làm việc chu đáo.
3. Không gian cắp.
4. Làm việc có lớp lang.
5. Bảo tồn danh giá chủ.
“Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ”.
Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn với năm điều:
1. Thân hành từ.
2. Khẩu hành từ.
3. Ý hành từ.
4. Tùy thời cúng thí.
5. Không đóng cửa khước từ.
Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo sáu điều:
1. Ngăn ngừa chớ để làm ác.
2. Chỉ dạy điều lành.
3. Khuyên dạy với thiện tâm.
4. Cho nghe những điều chưa nghe.
5. Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ.
6. Chỉ vẻ con đường sinh thiên.
“Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.”
Đọc toàn bộ nội dung kinh, một bản kinh ngắn, súc tích, ngôn ngữ Phật dùng rất rõ ràng mà bất cứ ai đọc cũng có thể nắm bắt, lời dạy như luồng sáng mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy, rất thiết thực, căn bản, rất cần cho chúng ta trong ứng xử với các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống.
Các pháp đều nương với nhau mà tồn tại, cũng vậy, mỗi người trong cuộc sống cũng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm về một điều gì đó với một ai đó, mỗi một ai đó sẽ là phần còn lại về nghĩa vụ và trách nhiệm của người nào đó, suy ra sẽ nhìn thấy một ma trận ngang dọc, ma trận vuông tròn các quan hệ. Quan hệ cha mẹ, con cái, ai cũng ít nhất một lần làm học trò, ai cũng ít nhất có một người bạn, ai cũng phải làm một việc gì đó để sống... vì vậy cần phải ứng xử sao cho hợp đạo hợp nghĩa, đúng mực để tự bảo vệ bản thân tức là bảo vệ cho gia đình, cho xã hội.
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế, như đời: “Đường hai nẻo xuống lên”.
Qua bản kinh Thiện Sanh trên đây, và chỉ cần một bản kinh duy nhất nầy đủ cho ta thấy nền tảng căn bản đạo làm người để có một xã hội nề nếp ổn định và hạnh phúc.
Đạo hiếu làm con, phận làm cha mẹ - Đạo nghĩa thầy trò - Đạo nghĩa vợ chồng - Quan hệ bạn bè, tình làng nghĩa xóm - Quan hệ chủ tớ, trên dưới - Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn. Những điều khuyến giáo này giúp những người tin Phật có ý thức nhiệm vụ, bổn phận đối với cuộc sống từ gia đình đến xã hội, thực hiện nghiêm túc, làm sao gia đình không thuận hòa, xã hội không nề nếp trật tự?
Tuy hiện nay phần lớn các quốc gia đang đối diện với nhiều vấn đề bất an về trật tự, xáo trộn về chính trị, xuống cấp về đạo đức, nhưng, một vài quốc gia lấy Phật giáo làm quốc đạo như Myanmar, Bhutan đã duy trì được nếp sống an hòa, trật tự, đạo đức xã hội gắn liền với đạo đức tôn giáo, cuộc sống vật chất tuy không sung túc nhưng nguồn hạnh phúc tinh thần của người dân luôn ổn định an lành. GDP của họ không căn cứ vào nguồn lợi vật chất mà căn cứ vào nguồn hạnh phúc của người dân.
Ngoài những điều cơ bản xây dựng tinh thần trách nhiệm với nhau của kinh Thiện Sinh, Toàn bộ Tam Tạng của Phật giáo đều huấn chỉnh con người theo tiêu chí nghiêm túc. Luật áp dụng cho tập thể, giới để điều hướng cá nhân. Một người tự nguyện sống đúng theo lời Phật dạy là một nhân tố hoàn hảo cho xã hội. Một tập thể tin Phật, hành theo lời Phật thì tập thể đó là một cộng đồng tốt cho xã hội. Xã hội không cần áp đặt luật pháp,tù giam hay bất cứ hình thức răn đe nào đối với những tập thể như thế. Ngược lại, những thành phần bất hảo trong xã hội là thành phần thiếu hàm dưỡng đạo đức của nhà Phật, cho dù luật pháp, tù giam hay bất cứ hình thức răn đe nào cũng khó mà chuyển hóa tội phạm, có chăng, chỉ là tạm lắng để chờ cơ hội bộc phát, vì hạt giống xấu ác vẫn tiềm phục trong tâm thức. Chỉ có tự thân ý thức, giác ngộ chuyển hóa hạt giống xấu thành hạt giống tốt thì phạm nhân mới trở thành Thánh nhân, người xấu mới thành người tốt. Muốn chuyển hóa được như thế, phải có phương cách giáo dục bằng tình thương và sự chăm sóc. Đạo đức học trong nhà Phật có những câu có thể giúp chúng ta tự chuyển hóa như:
Cùng là một chiếc bình như vậy, tại sao bạn lại chứa độc dược? Cùng một mảnh tâm tại sao bạn phải chứa đầy những não phiền như vậy?
Cung kính đối với người là sự trang nghiêm cho chính mình.
Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.
Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.
Sống một ngày là có diễm phúc của một ngày, nên phải trân quý. Khi tôi khóc, tôi không có dép để mang thì tôi lại phát hiện có người không có chân.
Khi bạn thành thật với chính mình, thế giới sẽ không ai lừa dối bạn.
Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả.
Đấy, nhà Phật còn biết bao lời hay ý đẹp đủ để chuyển hóa con người nếu con người can đảm chấp nhận Phật giáo. Thế thì biết ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống thì nhân thân trở thành điểm son cho xã hội, và xã hội sẽ là một cộng đồng để chúng ta muốn sống.
Minh Mẫn