Chùa Việt
Vĩnh Phúc cổ tự linh thiêng ghi dấu thăng trầm của PG Hà Tĩnh
Thứ bảy, 08/09/2018 05:30
Từ trung tâm Hành chính tỉnh Hà Tĩnh, đi ngược theo Tỉnh lộ 15 (đường đi hồ Kẻ Gỗ) qua đường tránh thành phố Hà Tĩnh chừng 800m rẽ phải chừng 500m, rẽ trái 300m là đến ngôi chùa cổ Vĩnh Phúc, thuộc xã Thạch Hương, huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh).
Chùa Vĩnh Phúc, thường gọi là chùa Sắt, xưa có tên Nông Sắt, ở xã Hương Bộc, tổng Thượng Nhất, nay là xóm 11, xã Thạch Hương, huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh.
Theo các văn bia, câu đối còn ghi lại nơi đây, thông qua lời kể của các cụ cao niên trong làng, và lời dịch lại của Giáo sư Phan Huy Lê trong lần về thăm chùa năm 2012, cũng như theo cuốn sách “Chùa Cổ Hà Tĩnh” do nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh chủ biên, chùa được xây dựng giai đoạn năm 654 khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công Nguyên, trên khuôn viên hơn 7.000 m2.
Trong chùa có hai câu đối:
Vĩnh cửu thiên trung khai tuệ nhật,
Phúc duyên sơn thượng ấm từ vân.
(Vĩnh viễn giữa trời vừng tuệ đó,Phúc duyên trên núi đám mây từ.)
Dữ thiên địa trường tồn, Dương, Mặc, Lão, Trang hà tại Cắng cổ kim phụng sư, Lương, Đường, Tần, Hán dĩ lai.
(Cùng trời đất lâu dài, Dương, mặc, Lão, Trang đâu nữa?
Suốt xưa nay thờ phụng, Lương, Đường, Tần, Hán đến giờ.).
Trước đây chùa có đầy đủ các công trình như nhà Tăng, chùa Thượng, chùa Hạ, tượng hộ pháp, cổng tam quan, giếng nước... Xung quanh có rất nhiều cây cối rậm rạp, có nhiều cây lấy gỗ như cây dung, cây bời lời... cây ăn quả như cây nhời, cây bứa, cây nổ bìa... Đặc biệt có rất nhiều loài chim muông về đây làm tổ sinh sống.
Chùa xưa uy nghi, nghiêm trang thầm chứa nét đẹp bình an của chốn thiền môn thanh tịnh, cả bốn mùa đều có hoa nở. Cây nổ bìa khi quả chính tạo thành những chùm quả trắng xóa trông rất đẹp mắt. Cây cối xum xêu quyện với tiếng hót của chim chóc làm tô tạo nên một khí địa linh thiêng, ví như “Hiền như cảnh Bụt” và “Đẹp như cảnh tiên”.
Chùa có một giếng nước trong vắt lấy nước ở giếng Chùa nấu với nước chè xanh Hương Bộc thì được xem như đặc sản tuyệt trần của vùng đất này. Theo lời cố Phật tử Biện Văn Hiếu, Pháp danh Lệ Quảng Tự Thanh Bình (Năm 2016 - 93 tuổi) một trong những đệ tử tại gia của cố Hòa thượng Thích Tinh Cần, người ở xóm Cửa Nương, kể lại:
Chùa có từ đời Đường, ngày xưa lối vào cổng chùa là lối giáp ranh giữa nhà ông Hiếu và nhà anh Hòa bây giờ. Cổng Chùa được làm bằng gỗ, phía trên lợp tranh, hai bên có tượng hai ông gọi là ông Hộ pháp. Qua cổng chùa là vào sân chùa, trước cửa sân có xây một bàn gọi là thập loại.
Tiếp đến sân chùa là nhà bái đường. Có diện tích khoảng 5 x 9m. Tường xây lợp ngói phía trước có mở ba cửa vòm. Trên đỉnh nóc có cấu tạo lưỡng chầu nguyệt. Cột kèo văn xà làm bằng gỗ lim ở chính giữa có xây một hương án để sư thầy làm lễ và có choox chứa được khoảng 50 - 60 người dự lễ.
Có một quả chuông đúc dòng chữ “Nông Sắt tự chung” có cù lao và bốn nụ cao khoảng 0,65m, đường kính 0,3m. Một chiếc trống lớn và một bộ chuông nhỏ để tụng kinh niệm Phật. Tiếp nhà bái đường đến chính điện là một khoảng trống có diện tích 4x5, hai bên có hai dãy áp bái. Phía bên phải khoảng trống ngang hàng với áp bái cách 30m có một đền thờ bà Chúa có hoa văn cổ kính rất đẹp. Cạnh bàn thờ bà Chúa là giếng nước.
Nhà chính diện có diện tích khoảng 25m2 xây bằng đá, vôi, mật ong, mái lợp cong cuốn, đường nét tinh xảo. Phía trong thiết trí tôn tượng Tam Thế.
Bậc dưới chính giữa có tượng Phật Thích Ca đản sanh, có 9 con rồng bao phủ gọi là Cửu Long. Tất cả các pho tượng đều làm bằng gỗ quý sơn son thiếp vàng rất đẹp. Gian bên trái có tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, bên phải có tượng Địa Tạng. Hai pho tương này cao gần 2m. Chùa có ruộng riêng khoảng 9 sào đất tốt.
Đây là ngôi chùa duy nhất ở Hương Bộc thời bấy giờ được cấp ruộng riêng. Hàng năm dân làng thay nhau cày cấy để lấy sản phẩm phục vụ việc thờ cúng ở chùa.
Cụ ông Nguyễn Đường (89 tuổi – 2014), người có thâm niên hơn 20 năm nguyên là Bí thư Đảng ủy xã Thạch Hương, thì chùa bị hư hỏng đập phá hoàn toàn vào khoảng năm 1965 - 1966, đến năm 1972 chùa bị đem làm kho thuốc bảo vệ thực vật. Đất vườn chùa bị chia cho các hộ dân trong xã, đến nay có 06 hộ dân đang sinh sống trên đất của chùa. Theo lời kể của các cụ cao niên tại địa phương và bà Đặng Thị Liệu (1925 – 2014) kể lại:
Ở Chùa Vĩnh Phúc trước đây được thực hành các nghi lễ thờ cúng như sau:
Một năm có 3 ngày lễ lớn:
- Ngày Rằm tháng Giêng: (Lễ đầu năm).
- Ngày 8 tháng 4 (Âm lịch) : (Lễ Trập Bụt)
- Ngày Rằm tháng Bảy: (Lễ báo hiếu cha mẹ và cúng cô hồn).
Trước đại lễ hai ngày, bà con đến quét dọn vệ sinh sạch sẽ Chùa để thầy làm lễ.
Chùa Vĩnh Phúc còn là nơi ghi dấu ấn về sự ra đời của Phật giáo Hà Tĩnh lúc bấy giờ.
Năm 1935, Hòa Thượng Thích Tinh Cần, thế danh Hà Thế Hanh – Ngài sinh năm 1902, nguyên quán xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh,tỉnh Quảng Bình.
Năm 1916 mới 14 tuổi xuất gia vào Cố đô Huế để tu học bổn tính thông minh nhanh nhẹn, siêng năng cần cù của chú tiểu đất Quảng Bình, nên được các bậc tôn túc Hòa thượng yêu quý, đặc biệt là vị thầy Bổn sư đã kèm cặp tu hành sớm trở thành một vị Tỳ kheo trẻ, tinh thông giáo lý Đức Phật lại có phẩm hạnh. Năm Ất Hợi 1935 tỳ kheo Thích Tinh Cần được bổ xứ ra Hà Tĩnh để hoằng truyền giáo pháp và xây dựng Phật pháp trên đất Hà Tĩnh. Lúc Ngài mới 33 tuổi.
Tại đây Ngài đã xây dựng đạo tràng, xây dựng Chùa tháp, trụ trì chính là ngôi chùa Cổ Lam tự (cạnh Nhà Văn hóa tỉnh Hà Tĩnh bây giờ).Từ đó Ngài đã đặt chân đến hầu hết các chùa trên đất Hà Tĩnh, Ngài còn liên lạc chặt chẽ với Phật giáo miền Bắc để thỉnh mời các vị tôn túc vào bồi dưỡng, tăng thêm kiến thức Phật pháp cho Phật tử hiện hữu nhân dân.
Mới đã hoàn thành tâm nguyện bước đầu, quê hương đất nước đang trong cảnh thực dân đô hộ, nhân dân Phật tử đói khát lầm than, nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã cướp đi sinh mạng hàng triệu người dân, trong đó có cha mẹ và 2 người anh chị của Hòa thượng để lại người cháu đích tôn duy nhất là Hà Thế Nhơn, nên năm 1945 Đại đức Thích Tinh Cần phải về quê để phần nào đền ơn báo hiếu, Ngài đã đưa đứa cháu ruột là Hà Thế Nhơn ( sinh 1930) ra nương nhờ cửa Phật để tiếp bước theo Ngài, nhưng duyên lành xuất gia chưa đủ nên người cháu lập gia đình tiếp nối tổ tiên.
Sau năm 1945 Ngài phụ trách Tỉnh hội Phật giáo Hà Tĩnh. Năm 1954 thực dân pháp rút quân khỏi Đông Dương, Phật giáo miền Bắc kiện toàn, Ngài được tấn phong Hòa Thượng và phụ trách Phật giáo Tỉnh hội Hà Tĩnh.
Ngài cũng đã về phụ trách chùa Vĩnh Phúc (Chùa Sắt). Ngày 3 tháng 7 năm Ất Mùi (ngày 20/8/1955) Ngài đã viên tịch, ninh phần tháp mộ lúc đầu được an táng tại Thị xã Hà Tĩnh (Nhà Văn hóa tỉnh bây giờ) sau đó ông Hà Thế Nhơn là cháu ruột quê ở Thạch Hương đã đưa về an táng tại nghĩa trang xã Thạch Hương, hiện nay đến ngày 3/7 (âm lịch) hàng năm chùa Vĩnh Phúc (Chùa Sắt) làm giổ cố Hòa thượng có rất đông quý thầy và Phật tử về dâng hương tưởng niệm.
Theo bà con nhân dân lân cận như bà Liệu, cố Thiệu (đã mất), ông Dương Công Phác ở gần chùa kể lại có rất nhiều câu chuyện nhiệm mầu và oai lực chốn linh thiêng này, những cây lá xung quanh hay giếng nước như là vị thuốc chữa trị những căn bệnh đơn giản cho dân làng, trâu bò sau khi thân chủ thành tâm thắp hương cầu nguyện, hay chuyện trẻ con bị sài lở lấy lá xung quanh giếng chùa về sắc uống là lành bệnh...
Ngoài ra còn nhiều những câu chuyện nhân quả “quả báo”có thể trùng lặp diễn ra do sự vô minh của các nạn nhân tội nghiệp chúng tôi muốn để cho khách thập phương khi về thăm tự tìm hiểu…
Hiện nay, chùa Vĩnh Phúc chỉ còn lại một nhà thượng điện, diện tích khoảng 25m2 được tọa lạc trên một diện tích đất gần 200m2 . Trong ngoài chánh điện các họa tiết hoa văn trong ngoài dù bị hư hỏng nhiều nhưng vẫn thể hiện nét cổ kính tinh xảo, và nội dung người xưa muốn lưu lại và một số mảng màu sắc nguyên gốc thuở xưa, ngôi thượng điện này được “thiên nhiên bảo vệ” một cách tuyệt đối bằng một cây cổ thụ xanh tươi rất đẹp ôm chặt để chống chọi, thử thách với thời gian.
Giếng nước trong xanh trước đây phục vụ uống cho cả dân làng đã bị lấp, đất bị lấn chiếm cấp cho các hộ dân làm nhà ở, chăn nuôi, nhiều hộ dân do tự phát lấn chiếm đất dẫn đến không có quy hoạch đường đi, đi chung với chùa gây nguy hiểm khi có hoạt động và mất trang nghiêm.
Trải qua các cuộc chiến tranh bảo vệ quê hương, nhiều ngôi không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong thôn xóm mà còn là minh chứng lịch sử cho thời kỳ kháng chiến hào hùng của dân tộc Việt Nam trong các cuộc kháng chiến, hầu hết các đình, chùa, đền, miếu đều lấy làm địa điểm học tập và hội họp của đoàn thể, là nơi học tập, xóa nạn mù chữ.Trong kháng chiến chùa Vĩnh Phúc cũng là nơi tránh bom đạn giặc Mỹ của bà con nhân dân.
Thạch Hương là một xã thuần nông, địa phương này có hơn 70% là người theo đạo Thiên Chúa, đa số Phật tử thiện tín đến chùa đều nghèo khó lam lũ, dù vậy, với tinh thần ham tu học và nguyện vọng muốn có nơi sinh hoạt Phật pháp, đại diện Phật tử và bà con nhân dân địa phương đã họp thống nhất bầu ra một Ban Hộ Tự trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và lãnh đạo Phật giáo huyện Thạch Hà, nhằm khôi phục lại ngôi chùa, xây dựng, hướng dẫn đạo tràng tu tập phù hợp với Hiến chương giáo hội và pháp luật nhà nước.
Sau khi Ban hộ tự được thành lập, Phật tử đã tự bỏ kinh phí sơn sửa, lợp lại chánh điện, xây dựng lắp đặt mới điện nước, xây dựng nhà Tăng, cổng chùa, nhà bếp mua sắm các vật dụng, các công trình phụ trợ khác phục vụ cho việc tu học, lễ bái, tạo nên một cảnh quan trang nghiêm thanh tịnh, mang lại giá trị cốt lõi của một ngôi chùa cũng nhằm bảo vệ, tôn tạo mà không đánh mất nét đẹp cổ kính kiến trúc xưa của một di tích tâm linh đã tồn tại hơn 1.300 năm khắc ghi bao thăng trầm của Phật giáo tỉnh nhà.
Minh Tuệ