Kinh Phật

Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Quyển 3)

Thứ năm, 28/11/2022 12:15

Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bản kinh vô cùng quan trọng và liên quan mật thiết đến sự trường tồn của Phật Pháp. Chính vì thế Hòa Thượng Tuyên Hóa đặc biệt coi trọng kinh này, Ngài Bảo: “Trong Phật giáo có rất nhiều bản kinh quan trọng, nhưng quan trọng nhất là kinh Thủ Lăng Nghiêm..."

Audio
3

 Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Quyển 2)

ĐOẠN III

THU 6 NHẬP : NHÃN-NHẬP, NHĨ-NHẬP, TỶ-NHẬP, THIỆT-NHẬP, THÂN-NHẬP VÀ Ý-NHẬP

Chi 1. – Thu nhãn-nhập.

“Lại nữa, A-nan, vì sao bản-tính của 6 nhập, vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng? A-nan, tức nơi tròng con mắt kia, ngó chăm phát ra mỏi-mệt, thì cả cái thấy và cái mỏi-mệt đó đều là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng-trần sáng và tối, phát ra cái thấy bên trong, thu-nạp các trần-tướng ấy gọi là tính-thấy; cái thấy đó rời hai trần sáng và tối kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết cái thấy đó không phải từ nơi sáng, nơi tối mà đến, không phải từ nơi con mắt mà ra, cũng không phải do cái hư-không mà sinh. Ví cớ sao ? Nếu từ cái sáng mà đến, thì khi tối đã theo cái sáng mà diệt, lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ cái tối mà đến, thì khi sáng phải theo cái tối mà diệt, lẽ ra không thấy được sáng. Nếu do con mắt mà sinh, hẳn không có sáng, có tối, thì cái thấy như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì ngó trước thấy các trần-tượng, xoay về phải thấy con mắt; lại hư-không tự thấy, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng nhãn-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 2. – Thu nhĩ-nhập.

“A-nan, ví như người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi-mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả cái nghe cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng-trần động và tĩnh, phát ra cái nghe ở trong, thu-nạp cái trần-tượng đó, gọi là tính-nghe. Tính-nghe ấy rời hai trần động, tĩnh kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết, cái nghe đó không phải từ nơi động, nơi tĩnh mà đến, không phải từ nơi lỗ tai mà ra, không phải do hư-không mà sinh. VÌ cớ sao? Nếu cái nghe kia từ nơi tĩnh mà đến, thì khi động phải theo cái tĩnh mà diệt, lẽ ra không nghe được động. Nếu từ nơi động mà đến, thì khi tĩnh sẽ theo cái động mà diệt, lẽ ra không biết được tĩnh. Nếu do lỗ tai mà sinh, hẳn không có động, có tĩnh, thì cái nghe như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì đã có tính nghe, chắc không phải là hư-không nữa; lại hư-không tự nghe, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng nhĩ-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 3. – Thu tỷ-nhập.

“A-nan, ví như có người bịt gấp hai lỗ mũi, bịt lâu thành ra mỏi-mệt thì ở, trong lỗ mũi, nghe có cảm-xúc lạnh; nhân những cảm-xúc như thế, mà phân-biệt được là thông, là ngăn-bịt, là rỗng, là đặc, cho đến các mùi thơm, thối; cả cái ngửi cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng-trần thông và bịt, phát ra cái ngửi ở trong, thu-nạp các trần-tượng đó gọi là tính-biết-ngửi. Cái ngửi đó rời hai trần thông và bịt kia, rốt-ráo không có tự-thể. Nên biết cái ngửi đó, không phải từ cái thông, cái bịt mà đến, không phải từ nơi lỗ mũi mà ra, cũng không phải do hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái thông mà đến, thì khi bịt, cái ngửi đã mất rồi, làm sao mà biết được bịt; nếu nhân cái bịt mà có, thì khi thông, không còn cái ngửi, làm sao biết được các mùi thơm, thối. Nếu từ lổ mũi sinh ra, hẳn không có cái thông, cái bịt, thì cái ngửi như vậy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì cái ngửi đó, phải xoay lại ngửi lỗ mũi của ông; lại hư-không tự ngửi, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng tỷ-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 4. – Thu thiệt-nhập.

“A-nan, ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sinh ra mỏi-mệt. Nếu người đó có bệnh thì có vị đắng. Còn người không có bệnh thì có chút vị ngọt. Do những cảm-xúc ngọt, đắng, mà bày tỏ cái tính-nếm; còn khi không động thì thường có tính-nhạt. Cả cái nếm và cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng-trần nhạt và ngọt, đắng, phát cái nếm ở trong, thu-nạp các trần-tượng đó, gọi là tính-biết-nếm. Tính-biết-nếm ấy rời hai trần nhạt và ngọt, đắng kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, ông nên biết rằng cái biết đắng, biết nhạt như vậy, không phải từ vị ngọt, đắng mà đến, không phải nhân tính nhạt mà có, không phải từ nơi lưỡi mà ra, cũng không phải do hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ các vị ngọt đắng mà đến, thì khi nhạt, cái biết-nếm đã diệt rồi, làm sao biết được nhạt; nếu từ cái nhạt mà ra thì khi ngọt, cái nếm đã mất rồi, làm sao biết được vị ngọt, đắng. Nếu do cái lưởi sinh ra, hẳn không có những vị ngọt, đắng và nhạt, thì cái biết-nếm ấy vốn không tự-tính. Nếu do hư-không mà ra, thì hư-không tự nếm, chứ không phải lưỡi ông nếm; lại hư-không tự biết, nào có dính gì đến chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng thiệt-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 5. – Thu thân-nhập.

“A-nan, ví-dụ như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng, nếu thế bên lạnh nhiều hơn, thì bên nóng cũng thành lạnh theo, nếu thế bên nóng nhiều hơn, thì bên lạnh cũng thành ra nóng; rồi như vậy, do cái cảm-xúc nhận-biết trong lúc hợp lại mà rõ sự nhận-biết lúc rời ra. Nếu cái thế chênh-lệch hiện-thành giữa nóng và lạnh, thì nhân đó phát ra mỏi-mệt mà có cảm-xúc. Cả cái biết cảm-xúc cùng cái mỏi-mệt đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.

Nhân nơi hai vọng-trần ly và hợp, phát ra cái hay-biết ở trong, thu-nạp các trần-tượng đó, gọi là cái biết-cảm-xúc. Cái biết như thế, rời hai trần ly và hợp, trái và thuận kia, rốt-ráo không có tự-thể; thật vậy, A-nan, ông nên biết cái cảm-xúc đó, không phải từ cái ly, cái hợp mà tới, không phải từ cái trái, cái thuận mà có, không phải do nơi thân-thể mà ra, cũng không phải do nơi hư-không mà sinh. Vì cớ sao? Nếu từ cái hợp mà đến thì khi ly, cái biết đã mất rồi, làm sao biết được cái ly; đối với hai tướng trái và thuận thì cũng như vậy. Nếu từ thân-thể mà ra, hẳn không có những tướng ly, hợp, trái, thuận, thì cái biết-cảm-xúc của ông vốn không tự-tính. Nếu từ nơi hư-không mà ra, thì hư-không tự hay-biết, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng thân-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 6. – Thu ý-nhập.

“A-nan, ví như có người nhọc-mỏi thì ngủ, ngủ chán thì thức dậy, khi nhận-biết trần-cảnh thì nhớ, khi hết nhớ thì gọi là quên. Các món sinh, trụ, dị, diệt, trái-ngược đó, thói-quen thu-nạp đưa vào trong, không lẫn-lộn nhau, gọi là ý-căn. Cả cái ý-căn cùng cái mỏi-mệt, đồng là thể-tính Bồ-đề chăm-chú phát ra tướng mỏi-mệt.

Nhân nơi hai thứ vọng-trần sinh và diệt, nhóm cái biết ở trong, thu-nạp pháp-trần bên trong, dòng thấy nghe đi ngược lại vào bên trong mà không đến đâu, gọi là cái ý-hay-biết. Cái ý-hay-biết đó rời hai trần thức và ngủ, sinh và diệt kia, rốt-ráo không có tự-thể. Thật vậy, A-nan, nên biết cái ý-căn hay-biết như thế, không phải từ nơi thức, nơi ngủ mà đến, không phải do cái sinh, cái diệt mà có, không phải từ nơi ý-căn mà phát ra, cũng không phải do nơi hư-không mà sinh. Ví cớ sao? Nếu từ nơi thức mà đến, thì khi ngủ đã theo cái thức mà diệt rồi, còn lấy cái gì làm cái ngủ; nếu chắc lúc sinh mới có, thì khi diệt, đã hóa như không có rồi, thì lấy cái gì mà biết là diệt. Nếu do cái diệt mà có, thì khi sinh, không có diệt nữa, lấy gì mà biết là sinh. Nếu do ý-căn mà ra, thì hai tướng thức, ngủ thay-đổi lẫn nhau nơi thân-thể, nếu rời hai tướng ấy ra, thì cái ý-hay-biết đó, cũng như hoa-đốm hư-không, rốt-ráo không có tự-tính. Nếu do hư-không mà sinh, thì hư-không tự biết, nào có dính gì chỗ thu-nạp của ông. Vậy nên biết rằng ý-nhập là luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

ĐOẠN IV THU MƯỜI HAI XỨ (6 CĂN VÀ 6 TRẦN)

Chi 1. – Thu 2 xứ sắc-trần và nhãn-căn.

“Lại nữa, A-nan, vì sao bản-tính của 12 xứ, vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng?

A-nan, ông hãy xem rừng cây Kỳ-đà và các suối ao đó; ý ông nghĩ thế nào? Như thế là sắc-trần sinh ra cái thấy, hay cái thấy sinh ra sắc-tướng?

A-nan, nếu cái thấy sinh ra sắc-tướng, thì khi thấy hư-không, không có sắc-tướng, lẽ ra tính-thấy sinh ra sắc-tướng đã tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất, thì tỏ ra hết thảy đều không; sắc-tướng đã không, thì lấy gì rõ được tướng hư-không? Đối với hư-không thì cũng như vậy.

Lại nếu sắc-trần sinh ra cái thấy, thì khi thấy hư-không, không có sắc, cái thấy liền tiêu mất đi, tiêu mất thì tất-cả đều không, lấy gì rõ được hư-không và sắc-tướng?

Vậy nên biết rằng cái thấy cùng sắc, không, đều không có xứ-sở; tức sắc-trần và cái thấy, hai xứ đó đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 2. – Thu 2 xứ thanh-trần và nhĩ-căn.

“A-nan, ông lại nghe trong vườn Kỳ-đà nầy, khi đồ-ăn dọn rồi thì đánh trống, khi chúng nhóm lại thì đánh chuông, tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối nhau. Ý ông nghĩ thế nào? Như thế là, cái tiếng đến bên cái nghe hay cái nghe đến chỗ cái tiếng? A-nan, nếu như cái tiếng đó đến bên cái nghe, thì cũng như tôi khất-thực trong thành Thất-la-phiệt, tại rừng Kỳ-đà không có tôi nữa. Cái tiếng đó đã đến bên cái nghe của ông A-nan, thì lẽ ra ông Mục-Liên, ông Ca-Diếp không cùng nghe một lần, huống chi, trong nầy có 1250 vị Sa-môn, một khi nghe tiếng chuông, đồng đến chỗ ăn cơm cả.

Lại như cái nghe của ông đến bên cái tiếng, thì cũng như tôi đã về rừng Kỳ-đà rồi, trong thành Thất-la-phiệt, không còn tôi nữa; vậy khi ông nghe tiếng trống, cái nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi tiếng chuông cũng phát ra, lẽ ra ông không thể nghe cả hai bên, huống nữa, ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu không đi đến với nhau, thì lại không nghe.

Vậy nên biết rằng cái nghe và cái tiếng đều không có xứ-sở; tức cái nghe và thanh-trần, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 3. – Thu 2 xứ hương-trần và tỷ-căn.

“A-nan, ông hãy ngửi hương chiên-đàn trong lư nầy, hương ấy, nếu đốt đến một thù, thì cả thành Thất-la-phiệt, trong 40 dặm, đồng-thời đều ngửi mùi thơm. Ý ông nghĩ thế nào? Mùi thơm ấy sinh ra, do cây chiên-đàn, do nơi lỗ mũi của ông hay do nơi hư-không? Nếu như mùi thơm ấy sinh ra do lỗ mũi của ông, thì đã gọi là do lỗ mũi sinh ra, tất phải từ lỗ mũi mà ra, lỗ mũi không phải chiên-đàn, làm sao trong lỗ mũi, lại có được mùi thơm chiên-đàn? Lại đã gọi rằng ông ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào trong lỗ mũi, còn trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, mà nói rằng ngửi được, thì không đúng nghĩa.

Nếu sinh ra do nơi hư-không, thì tính hư-không thường còn, mùi thơm cũng phải thường có, cần gì phải đốt cây khô chiên-đàn trong lư rồi mới có. Nếu mùi thơm sinh ra do cây chiên-đàn, thì cái chất thơm ấy nhân đốt mà thành khói; nếu lỗ mũi ngữi được, thì lẽ ra khói phải xông đến lỗ mũi, làm sao, khói đó lên trên không, chưa được bao xa, mà trong 40 dặm đều ngửi thơm cả.

Vậy, nên biết rằng hương-trần và cái ngửi đều không có xứ-sở, tức cái ngửi và hương-trần hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 4. – Thu 2 xứ vị-trần và thiệt-căn.

“A-nan, ông thường hai thời, ở trong chúng cầm bình-bát khất-thực. Trong đó, hoặc gặp những món tô, lạc, đề-hồ, gọi là vị quý.

Ý ông nghĩ thế nào? Vị đó sinh ra, do nơi hư-không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ-ăn?

A-nan, nếu vị ấy sinh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi; cái lưỡi lúc bấy giờ đã thành vị tô rồi, nếu gặp đường phèn, lẽ ra cái vị không dời-đổi, mà nếu không dời-đổi, thì không gọi được là biết vị, còn nếu dời-đổi, thì cái lưỡi không phải có nhiều tự-thể, làm sao, một cái lưỡi lại biết được nhiều vị? Nếu sinh ra do đồ-ăn, thì đồ-ăn không có tri-giác, làm sao tự biết được vị? Lại đồ-ăn tự biết, thì cũng đồng như người khác ăn, nào có dính gì đến ông, mà gọi rằng ông biết vị? Nếu sinh ra do hư-không, thì ông hãy nếm cái hư-không xem là vị gì. Nếu cái hư-không đó vị mặn, thì đã làm mặn cái lưỡi của ông, cũng phải làm mặn cái mặt của ông và mọi người trong cõi nầy, cũng giống như cá bể, đã thường chịu cái mặn, không còn biết thế nào là nhạt nữa. Nhưng nếu không biết nhạt, thì lại cũng không biết mặn. Mà đã không biết cái gì, thì làm sao còn gọi là biết vị?

Vậy nên biết rằng các vị và cái lưỡi biết nếm đều không có xứ-sở; tức cái biết nếm cùng với các vị, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 5. – Thu 2 xứ xúc-trần và thân-căn.

“A-nan, ông thường sớm mai lấy tay xoa đầu, ý ông nghĩ thế nào? Trong việc biết xoa đó, lấy cái gì làm cái biết cảm-xúc? Cái biết ở nơi tay hay ở nơi đầu? Nếu nó ở nơi tay, mà cái đầu không biết, thì làm sao thành cái cảm-xúc ấy? Còn nếu nó ở nơi đầu, mà cái tay vô-dụng, thì làm sao gọi là cảm-xúc được. Nếu cả cái đầu và cái tay, mỗi cái đều có biết, thì một mình ông A-nan phải có hai cái biết cảm-xúc.

Nếu cả đầu và tay đều do một cảm-xúc sinh ra, thì tay và đầu lẽ ra chỉ có một tự-thể; mà nếu chỉ có một tự-thể, thì không năng, không sở, cảm-xúc không thành-lập được. Còn nếu là hai thể, thì cảm-xúc ở phía nào, ở bên năng, thì không ở bên sở, ở bên sở, thì không ở bên năng; không lẽ hư-không tạo-thành cảm-xúc cho ông?

Vậy nên biết rằng cảm-xúc và thân-căn đều không có xứ-sở; tức cái thân biết cảm-xúc cùng cái cảm-xúc, hai thứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 6. – Thu 2 xứ pháp-trần và ý-căn.

“A-nan, ông thường trong ý duyên với ba tính: thiện, ác và vô-ký, sinh ra có các pháp-trần. Những pháp-trần đó tức nơi tâm mà sinh ra hay là rời cái tâm, riêng có chỗ khác?

A-nan, nếu tức nơi tâm, thì pháp-trần không phải là trần-cảnh nữa, và như thế, thì nó không phải là cái sở-duyên của tự-tâm, làm sao thành một xứ được?

Nếu rời cái tâm, riêng có chỗ khác, thì bản-tính của pháp-trần là có biết hay không có biết?

Nếu có biết, thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không phải trần-cảnh, thì cũng như cái tâm của người khác; còn nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, thì làm sao cái tâm nơi ông lại thành hai được?

Lại nếu như không có biết, cái pháp-trần đó đã không phải sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh, nóng và tướng hư-không, thì nó sẽ ở chỗ nào? Hiện nay nơi sắc, không, không thể chỉ nó ra được; không lẽ trong nhân-gian lại có cái ngoài hư-không?

Không có cảnh sở-duyên, thì ý-căn do đâu mà lập-thành một xứ được?

Vậy nên biết rằng pháp-trần cùng ý-căn đều không có xứ-sở; tức ý-căn cùng pháp-trần, hai xứ đều luống-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

ĐOẠN V

THU MƯỜI TÁM GIỚI (6 CĂN, 6 TRẦN VÀ 6 THỨC)

Chi 1. – Thu nhãn, sắc và nhãn-thức-giới.

“Lại nữa A-nan, làm sao 18 giới vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng?

A-nan, như ông bày-tỏ : Nhãn-căn và sắc-trần làm duyên, sinh ra nhãn-thức. Thức đó lại là nhân nhãn-căn sinh ra, lấy nhãn-căn làm giới, hay nhân sắc-trần sinh ra, lấy sắc-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân nhãn-căn sinh ra, mà không có sắc có không, thì không thể phân-biệt, dầu cho có cái thức của ông thì đem ra dùng về việc gì? Cái thấy của ông, ngoài những sắc xanh, vàng, trắng, đỏ, thì không thể biểu-hiện được; vậy do đâu mà lập thành ra giới?

Nếu nhân sắc-trần sinh ra, thì khi chỉ có hư-không, không có sắc, lẽ ra cái thức của ông phải diệt, làm sao còn biết được là hư-không? Nếu khi sắc-tướng biến-đổi thành hư-không, ông cũng biết rằng sắc-tướng biến-đổi, mà cái thức của ông thì không biến đổi; thế thì, do đâu mà lập sắc-trần làm giới? Nếu theo sắc-trần mà biến-đổi, thì tự-nhiên sắc-trần không thành giới được. Nếu không biến-đổi, thì là thường hằng, cái thức đã do sắc-trần sinh ra, lẽ ra không thể biết hư-không ở đâu?

Nếu gồm hai thứ nhãn-căn và sắc-trần chung cùng sinh ra ; vậy, như hợp lại, thì ở giữa phải ly, còn như ly ra, thì hai bên lại hợp, thể-tính xen-lộn, làm sao thành được giới?

Vậy nên biết rằng nhãn-căn sắc-trần làm duyên, sinh ra giới nhãn-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới nhãn-căn, sắc-trần và nhãn-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 2. – Thu nhĩ, thanh và nhĩ-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ : Nhĩ-căn và thanh-trần làm duyên, sinh ra nhĩ-thức. Thức đó nhân nhĩ-căn sinh ra, lấy nhĩ-căn làm giới, hay nhân thanh-trần sinh ra, lấy thanh-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân nhĩ-căn sinh ra, mà không có hai tướng động, tĩnh hiện-tiền, thì cái biết của nhĩ-căn cũng không thành; mà đã không biết gì, thì cái biết còn không thành, huống nữa cái thức phân-biệt còn có hình-trạng gì.

Nếu nhân lỗ tai nghe thì đã không động, tĩnh, cái nghe cũng không thành ; làm sao lấy hình-sắc lỗ tai đối với xúc-trần, mà gọi được là giới nhĩ-thức ; và cái giới nhĩ-thức như thế, do đâu mà lập ra.

Nếu nhân thanh-trần mà sinh, thì cái nhĩ-thức nhân thanh-trần mà có, không có dính-líu gì đến cái nghe ; mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng thanh-trần ở đâu. Lại nói nhĩ-thức do thanh-trần sinh ra, dầu cho rằng thanh-trần, nhân cái nghe mà có tướng, thì cái nghe, lẽ phải nghe được nhĩ-thức. Nếu không nghe được nhĩ-thức, thì thanh-trần không phải là giới của nhĩ-thức. Nếu nghe được, thì nhĩ-thức cũng đồng như thanh-trần, và nhĩ-thức đã bị nghe, thì lấy cái gì biết được rằng đã nghe cái thức? Còn nếu cái thức không biết, thì cũng như cỏ như cây.

Lại không lẽ thanh-trần và cái nghe xen-lộn, thành ra giới ở giữa? Giới ở giữa đã không có, thì các tướng nội-căn, ngoại-trần, do đâu mà thành-lập được.

Vậy, nên biết rằng nhĩ-căn, thanh-trần làm duyên, sinh ra giới nhĩ-thức, cả ba chỗ đều không và ba giới nhĩ-căn, thanh-trần và nhĩ-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 3. – Thu tỷ, hương và tỷ-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Tỷ-căn và hương-trần làm duyên, sinh ra tỷ-thức. Thức đó lại nhân tỷ-căn sinh ra, lấy tỷ-căn làm giới, hay nhân hương-trần sinh ra, lấy hương-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân tỷ-căn sinh ra, thì trong tâm ông lấy cái gì làm tỷ-căn? Ông lấy cái hình-tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy cái tính ngửi-biết lay-động làm tỷ-căn?

Nếu lấy cái hình-tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân-căn và cái biết của thân-căn là cái biết cảm-xúc. Đã gọi là thân-căn thì không phải là tỷ-căn, đã gọi rằng cảm-xúc, thì đó là xúc-trần đối với thân-căn. Vậy, còn không có gì đáng gọi là tỷ-căn, do đâu mà lập thành giới?

Nếu lấy cái ngửi-biết làm tỷ-căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái có ngửi-biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc-trần, chứ không phải như tỷ-căn; nếu lấy cái hư-không làm cái có ngửi-biết, thì hư-không tự biết, còn xác-thịt lẽ ra không biết, như thế, thì lẽ ra hư-không là ông; thân của ông mà không có biết, thì ông A-nan hiện nay lẽ cũng không còn đâu nữa.

Nếu lấy cái hương làm cái có ngửi-biết, thì cái biết thuộc về hướng-trần, nào dính gì đến ông?

Nếu các mùi thơm, thối sinh ra do tỷ-căn của ông, thì hai mùi thơm, thối kia không sinh ra do cây y-lan và cây chiên-đàn; hai vật đó không tới, ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối; thối thì không phải thơm, thơm thì không phải thối; nếu cả hai mùi thơm, thối đều ngửi được cả, thì một người ông phải có hai tỷ-căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có hai ông A-nan, thì ông nào mới là tự-thể của ông. Còn nếu tỷ-căn là một, thì thơm, thối không hai, thối đã thành thơm, thơm đã thành thối, hai tính đó đã không có, thì lấy gì lập được thành giới?

Lại nếu nhân hương-trần mà có, thì tỷ-thức đã nhân hương-trần mà có, cũng như nhân con mắt có thấy, không thể thấy được con mắt; tỷ thức nhân hương-trần mà có, lẽ ra không biết được hương-trần. Nếu biết được hương-trần, thì không phải do hương-trần sinh ra, nếu không biết được hương-trần, thì không phải là tỷ-thức.

Hương-trần mà không ngửi biết là có, thì cái giới hương-trần không thành; tỷ-thức mà không biết hương-trần, thì cái giới của nó, không phải do hương-trần mà lập. Đã không có cái thức trung-gian, thì nội-căn, ngoại-trần cũng không thành và tất-cả những điều ngửi-biết kia rốt-ráo đều luống-dối.

Vậy, nên biết rằng tỷ-căn, hương-trần làm duyên, sinh ra tỷ-thức, cả ba chỗ đều không và ba giới tỷ-căn, hương-trần và tỷ-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 4. – Thu thiệt, vị và thiệt-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Thiệt-căn và vị-trần làm duyên, sinh ra thiệt-thức. Thức đó lại nhân thiệt-căn sinh ra, lấy thiệt-căn làm giới, hay nhân vị-trần sinh ra, lấy vị-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân thiệt-căn sinh ra, thì như trong thế-gian, những loại mía ngọt, mơ chua, hoàng-liên đắng, muối mặn, tế tân, gừng, quế cay, đều không có vị, ông tự nếm cái lưỡi là ngọt hay là đắng. Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì mà nếm cái lưỡi; cái lưỡi đã không thể tự nếm được, thì lấy gì mà có hay-biết; còn nếu cái lưỡi không đắng, thì tự-nhiên vị-trần không sinh ra, làm sao mà lập được thành giới?

Nếu nhân vị-trần sinh ra ; vậy thiệt-thức đã là vị rồi, thì cũng đồng như thiệt-căn, không thể tự nếm được, làm sao còn biết được là có vị hay không có vị? Lại tất-cả các vị không phải do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra, thì cái thiệt-thức do vị-trần sinh ra, cũng phải có nhiều tự-thể. Nếu tự-thể của thiệt-thức là một và tự-thể đó thật do vị-trần sinh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay và nhiều vị khác nhau, do các thứ đó hòa-hợp cùng sinh ra, đều chỉ là một vị, lẽ ra không có phân-biệt; mà đã không có phân-biệt, thì không thể gọi là thức, làm sao còn gọi là giới thiệt-thức? Không lẽ hư-không lại sinh được cái thức của ông?

Nếu thiệt-căn, vị-trần, hòa-hợp mà sinh ra cái thức ở giữa, vốn không tự-tính, làm sao mà lập được thành giới?

Vậy, nên biết rằng thiệt-căn, vị-trần làm duyên, sinh ra thiệt-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thiệt-căn, vị-trần và thiệt-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 5. – Thu thân, xúc và thân-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Thân-căn và xúc-trần làm duyên, sinh ra thân-thức. Thức đó lại là nhân thân-căn sinh ra, lấy thân-căn làm giới, hay nhân xúc-trần sinh ra, lấy xúc-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân thân-căn sinh ra, không có cái duyên của hai cảm-xúc hợp và ly, thì thân-căn còn biết gì. Nếu nhân xúc-trần sinh ra mà không có thân-căn của ông, thì có ai không có thân-căn mà biết hợp, biết ly được.

A-nan, vật thì không biết cảm-xúc, thân-căn có biết, mới có cảm-xúc ; tức nơi cảm-xúc, mà biết có thân-căn, tức nơi thân-căn mà biết có cảm-xúc; nhưng đã tức là cảm-xúc, thì không phải thân-căn, mà đã tức là thân-căn, thì không phải cảm-xúc; cả hai tướng thân-căn và xúc-trần, vốn không có xứ-sở. Nếu xúc-trần hợp một với thân-căn, thì tức là tự-thể của thân-căn rồi; còn nếu rời hẳn với thân-căn, thì thành không có gì, như các tướng hư-không.

Nội-căn, ngoại-trần đã không thành, thì làm sao lập được cái thức ở giữa; cái thức ở giữa đã không lập được, thì nội-căn, ngoại-trần, bản-tính cũng rỗng-không và cái thức của ông do đâu mà lập được thành giới.

Vậy, nên biết rằng thân-căn, xúc-trần làm duyên, sinh ra thân-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thân-căn, xúc-trần và thân-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 6. – Thu ý, pháp và ý-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Ý-căn và pháp-trần làm duyên, sinh ra ý-thức. Thức đó lại là nhân ý-căn sinh ra, lấy ý-căn làm giới, hay nhân pháp-trần sinh ra, lấy pháp-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân ý-căn sinh ra, thì trong ý ông, chắc phải có chỗ nghĩ-ngợi mới phát-minh được cái ý của ông ; nếu không có các pháp-trần, thì ý-căn không thể sinh ra được. Rời các pháp-trần, ý-căn còn không có hình-tướng, thì đem ý-thức ra mà dùng vào việc gì?

Lại cái thức-tâm của ông với các thứ nghĩ-ngợi, các sự rõ-biết là đồng nhau hay khác nhau. Nếu đồng với ý-căn, thì tức là ý-căn rồi, làm sao lại do ý-căn sinh ra ? Nếu khác, mà không đồng với ý-căn, thì lẽ ra không còn biết gì. Nếu không biết gì, thì làm sao lại do ý-căn sinh ra; còng nếu có biết, thì làm sao lại chia ra ý-thứ và ý-căn? Chỉ hai tính đồng nhau, khác nhau còn không thành, làm sao lập được thành giới?

Nếu nhân pháp-trần sinh ra, thì các pháp trong thế-gian, không ngoài năm trần. Ông hãy xét các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ-ràng đối với năm căn, đều không thuộc về phần thu-nạp của ý-căn. Nếu ý-thức của ông quyết-định nương nơi pháp-trần mà sinh ra, thì ông hãy xét từng pháp, từng pháp, hình-trạng thế nào. Nếu rời hẳn các tướng sắc, không, động, tĩnh, thông, bịt, hợp, ly, sinh, diệt, thì rốt-ráo không thành một pháp nào cả. Lại, sinh cũng là các pháp như sắc, như không sinh ra, diệt cũng như các pháp như sắc, như không diệt mất. Các nguyên-nhân đã không thành, thì cái thức do nó sinh ra, còn có hình-tướng gì; hình-tướng còn không có, làm sao mà lập được thành giới. Vậy, nên biết rằng ý-căn, pháp-trần làm duyên, sinh ra ý-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới ý-căn, pháp-trần và ý-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên”.

ĐOẠN VI

THU BẢY ĐẠI : ĐỊA-ĐẠI, THỦY-ĐẠI, HỎA-ĐẠI, PHONG-ĐẠI, KHÔNG-ĐẠI, KIẾN-ĐẠI VÀ THỨC-ĐẠI.

Chi 1. – Xin khai-thị về tứ đại hòa-hợp.

Ông A-nan bạch Phật : “Thưa Thế-tôn, đức Như-lai thường nói về nhân duyên hòa-hợp rằng: Tất-cả các thứ biến-hóa trong thế-gian đều nhân bốn món “Đại” hòa-hợp mà phát ra. Làm sao đức Như-lai lại bác-bỏ cả hai nghĩa nhân-duyên và tự-nhiên. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương-xót chỉ-bày cho chúng-sinh nghĩa rốt-ráo của trung-đạo, không còn các đều hý-luận.”

Chi 2. – Chỉ rõ thể-tính tứ-đại không phải hòa-hợp.

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông A-nan rằng : “Trước đây ông nhàm-chán các pháp tiểu-thừa Thanh-Văn, Duyên-giác, phát tâm tha-thiết cầu đạo vô-thượng Bồ-đề, nên tôi lúc nầy chỉ-bày cho ông đệ-nhất-nghĩa-đế, làm sao ông lại còn đem những nhân-duyên vọng-tưởng hý-luận thế-gian mà tự ràng-buộc mình? Ông tuy nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc thật ở trước mắt, thì lại không phân-biệt được. Như-lai gọi là rất đáng thương-xót. Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân-tách chỉ-bày và cũng để cho những người tu đại-thừa sau nầy thông-suốt được thật-tướng.”

Ông A-nan yên-lặng kính vâng thánh-chỉ của Phật.

Phật dạy : “A-nan, như ông đã nói: Bốn món “Đại” hòa-hợp phát ra các thứ biến-hóa trong thế-gian. A-nan, nếu tính các món đại kia không phải hòa-hợp, thì không thể lẫn-lộn với các đại khác, cũng như hư-không không thể hòa-hợp được với các sắc-tướng. Nếu tính của các đại là hòa-hợp, thì cũng đồng như các thứ biến-hóa, thủy chung thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn ch

loading...