Sách Phật giáo

Làm gì để được vãng sinh Tây phương Cực Lạc? (P2)

Thứ sáu, 22/04/2016 08:39

Phát tâm Bồ-Đề tức là nguyện làm Phật để độ tận chúng sinh ở khắp mười phương nhưng không phải là khi về Tây phương Cực Lạc mới làm mà phải thực hành ngay ở đời này.

 
1- Chăm lo Hoằng dương Phật pháp qua việc tham gia 
các pháp hội mà các thiện-tri-thức giảng kinh thuyết pháp, tham gia xây dựng pháp-đường để mọi người đến đó học tập giáo lý Kinh điển của Phật, in ấn Kinh điển để làm lợi ích cho mọi người lấy đây trì tụng, tu học. Đây là việc làm công đức vô-lậu vì giúp mình và mọi người có điều kiện mà thực hành pháp xuất-thế-gian, giúp mình có đầy đủ phước đức nhân duyên để khi lâm chung được Phật đến tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc. 

Tinh tấn trì niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, một lòng cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc. Niệm danh hiệu Phật là niệm sáu chữ Hồng danh Nam mô A-Di-Đà Phật, phải cho thiết tha, dứt khoát cho quyết định cầu vãng sinh về Tây phương Cực-Lạc của mình và coi đây là một trọng sự mà không có gì cao cả quan trọng bằng. Tất cả tâm tư, tình cảm và ý chí đều nhằm mục đích cho lời nguyện đó thành công, để khi lâm-chung có đầy đủ phước đức nhân duyên để Phật đến tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà. 

Thực hành như thế là thực niệm, còn không chỉ là giả niệm mà giả niệm thì như các vị Sư-tổ nói: “Niệm đến khản cả cổ, đến vỡ cả cổ họng cũng chẳng ích gì? ”

Để quyết định thành công chúng ta phối hợp giữa việc thực hành niệm Phật như trên với những việc sau đây:

a- Trì niệm các thần chú quan trọng như trì tụng chú Vô-Lượng-Thọ Như-Lai Chân ngôn, Vô-Lượng-Thọ Tông-Yếu Chân-ngôn, Công-Đức Bảo-Sơn Đà-Ra-Ni. 

Tại sao phải trì tụng các thần chú này? Vì như trong Kinh này Phật cũng như đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đã dạy: -Như trong Kinh Vô-Lượng-Thọ Như Lai Chân-ngôn, đức Quán-Thế-Âm đã tuyên thuyết trước Phật Thích-Ca Mâu-Ni tại pháp hội Phật thuyết Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật như sau:

“Nay con nương uy-thần của đức A-Di-Đà, mà ban cho chúng sinh quyết chí niệm Phật thời Mạt-pháp một chân ngôn gọi là: Vô Lượng Thọ Như-Lai Chân Ngôn. Đây là tạng pháp bí mật của Phật A-Di-Đà, ẩn chứa vô biên thần lực tự tại bất tư nghị. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lỡ phạm giới căn-bản, tụng xong bảy biến liền trở lại được giới phẩm thanh-tịnh. 

Tụng hai mươi mốt biến, tiêu diệt các tội: tứ-trọng, ngũ-nghịch, thập-ác và tất cả chướng-ngại trên bước tu hành đều trừ sạch, hiện đời an-lạc, thuận lợi, được sự nhiếp thọ của vô lượng Như-Lai. 

Tụng một muôn biến, tâm Bồ-đề hiển hiện nơi thân không quên mất. Thấy đức Phật phóng quang tụ trên đỉnh đầu. Người niệm Phật lần lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẻ, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm-chung, hành-giả niệm Phật liền thấy Phật A-Di-Đà cùng vô-lượng muôn ức Bồ-Tát vây quanh, an ủi, tiếp-dẫn. Người niệm Phật tức khắc được sinh về Thượng phẩm ở Cực-Lạc.

Chân ngôn là: "Na mô rát na tờ gia gia gia. Na mắc a  ry gia a mi ta pha gia ta tha ga ta gia, a rờ ha tê, sam giác sam bút đa gia. Ta đi gia tha: Om, a mờ rật tê, a mờ rật tô đờ pha vê, a mờ rật ta sam pha vê, a mờ rật ta ga ri phê, a mờ rật ta sít đê, a mờ rật ta tê rê, a mờ rật ta vi hờ rim tê, a mờ rật ta vi hờ rim ta ga mi nê, a mờ rật ta ga ga na ki ti ka rê, a mờ rật ta đun đa phi sờ va rê, sạc va rờ tha sa đa nê, sạc va kác ma ka lê sa ka sa giam ka lê, sờ va ha."

Tại sao phải phát tâm Đại-thừa, in ấn Kinh điển,  xây pháp đường hoằng dương Phật pháp?
 
Nếu thâm nhập sâu vào Kinh điển Phật chúng ta thấy rõ trong Kinh Vô-Lượng-Thọ Tông-Yếu Chân-Ngôn, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã tuyên cáo như sau:

"Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người khác viết chép Vô-Lượng-Thọ Tông-Yếu Kinh, thọ-trì đọc tụng thì lúc sắp mạng-chung có chín mươi chín Phật Hội hiện ra trước mắt, được ngàn Phật thọ-ký, hay đi đến mười phương các cõi Phật. Không nên đối với Kinh này sinh lòng nghi…(25) 

Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người viết chép Vô-Lượng-Thọ Tông-Yếu Kinh, thọ trì đọc tụng thì thường được bốn vị Đại-Thiên-Vương(26) luôn theo hộ vệ…

Nếu có người tự viết chép hoặc bảo người khác biên chép Vô-Lượng-Thọ Tông-Yếu Kinh, tức được vãng sinh nơi cõi Tây Phương Cực-Lạc Thế-Giới của Đức Phật A-Di-Đà… Thần chú là:

"Nam mô Rát Na Tra Da Da. Ôm, Nam Mô Ba Ga Va Tê. A Ba Ri Mi Ta A Du Cha Na. Su Bi Nít Chi Ta Ta Dê. Chô Ra Cha Da. Ta Tha Ga Ta Ya. A Ha Tê Sam Giắt Sam Bút Đa Da. Tát Da Tha. Ôm, Bu Na Dê Bu Na Dê. Ma Ha Bu Na Dê. A Ba Ri Mi Ta Bu Na Dê. A Ba Ri Mi Ta Bu Na Da. Cha Na. Sam Ba Rô Ba Chi Tê. Ôm Sạt Va Sam Sờ Ka Ra. Ba Ri Sút Đa Đạt Ma Tê. Ga Ga Na Sa Mút Ga Tê. Xoa Ba Va Vi Sút Đê. Ma Ha Na Da Ba Ri Va Ra Dê. Xóa Ha."

Trong Kinh Sở Thuyết Đà-Ra-Ni, đức Phật đã nói rõ về công năng niệm Công Đức Bảo Sơn Đà-Ra-Ni như sau: “Nếu người tụng chú này một biến, như lễ Ðại Phật-Danh Kinh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến. Lại như chuyển Ðại-Tạng 60 vạn 5 ngàn 4 trăm biến. Tạo tội quá mười cõi sát độ, đọa vào A-Tỳ địa-ngục chịu tội, kiếp hết lại sinh nơi khác để chịu tội. Niệm chú này một biến, tội kia đều được tiêu diệt, không còn đọa vào địa-ngục, khi mạng-chung quyết định vãng sinh Tây phương thế-giới, được thấy Phật A-Di-Ðà, và được thượng-phẩm thượng-sinh. Thần chú là: 
   Nam Mô Phật Ðà da 
   Nam Mô Ðạt Ma da 
   Nam Mô Tăng Già da 
Úm tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha."

Bởi vì thế, cùng với việc niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, một lòng cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc thì để nắm chắc phần quyết định vãng sinh, chúng ta phải trì tụng ba thần chú quan trọng này.”
 
Như thế, tu hành mà mà chỉ nghĩ ngồi đó an trụ niệm Phật, đi vòng quanh niệm vài trăm niệm danh hiệu của Ngài mà không phát tâm Đại-thừa làm việc công đức như in ấn Kinh điển, chăm lo xây pháp-đường để mọi người về đó học Kinh điển Phật, giúp kẻ nghèo khó, kẻ bị ốm đau bệnh tật không có nơi nương tựa v.v...thì cơ hội để được vãng sinh Tây phương Cực-Lạc thật là nhỏ bé.   

Cư sĩ Quảng Tịnh
Trích trong Giáo án để giảng mùa kiết hạ 2016
Còn nữa...

Ghi chú: Bài viết thể hiện cách tư duy, quan điểm và lối hành văn của cư sĩ Quảng Tịnh.

TIN, BÀI LIÊN QUAN:

loading...