Sách Phật giáo

Lột xác (Phần cuối)

Thứ sáu, 12/04/2017 04:05

Lột xác ở đây chủ yếu là thay đổi tâm thức chuyển mê thành ngộ để sống với tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt và có cách nhìn thông thoáng hơn, cảm thông và tha thứ, bao dung và độ lượng, giúp đỡ và sẻ chia, hiểu biết và thương yêu, dấn thân và phục vụ, lợi ích vì mọi người.

PHẦN 3: RỬA NGHIỆP LỘT XÁC

NĂM LỜI KHUYÊN CHÂN THÀNH

Sự trải nghiệm trong suốt quá trình tu tập của biết bao nhiêu bậc hiền Thánh đã đi trước, để lại cho chúng ta những lời chỉ dạy rất bổ ích, chúng tôi xin chân thành trình bày ra đây bằng tất cả tấm lòng với trái tim yêu thương và hiểu biết.

1. TIN PHẬT

Sự sống của con nguời là luôn tìm kiếm hạnh phúc cho thể xác lẫn tinh thần, vậy ai muốn tìm về cội nguồn của an lạc thì ta phải tìm hiểu coi Phật là gì? Là ai? Chúng ta muốn học hỏi và bắt chước đi theo con đường giác ngộ, giải thoát thì ta phải biết đức Phật là ai, trước khi tin Phật. Tin như vậy là niềm tin chân chính vì có tìm hiểu học hỏi và tu tập. Phật có phải là con người lịch sử hay là một đấng thần linh thượng đế như người cổ xưa đã gán cho hoặc Ngài là một nhân vật huyền thoại không có thật.

Phật là danh từ chung nói cho đủ gọi là Phật Đà, nói gọn lại gọi là Phật. Phật là người giác ngộ, là người tỉnh thức, là người vì lợi ích tha nhân, vì sự sống của con người. Giúp cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, tin sâu nhân quả với tinh thần chia vui bớt khổ.

Trước khi thành Phật Ngài là một hoàng thái tử chuẩn bị kế thừa ngôi vua, ý thức được sự khổ đau của nhân loại vì bị sinh, già, bệnh, chết. Ngài chấp nhận bỏ hết cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ để ra đi tìm cầu chân lý giúp cho con người thoát khỏi sinh già, bệnh, chết. Sau 5 năm học và tu với hai vị đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ, vẫn không hết được phiền muộn khổ đau do tham, sân, si chi phối. Nghe nói rằng lối tu khổ hạnh ép xác, hành hạ thân thể sẽ thành tựu đạo quả nên Ngài đã kiên trì bền bỉ thực hành liên tục sáu năm, cho đến thân thể chỉ còn lại da bọc xương và cuối cùng bị ngất xỉu.

Nhờ một cô thôn nữ cúng dường bát sữa, Ngài tỉnh lại và tìm ra lối tu trung đạo, ăn uống vừa đủ để nuôi sống thân này và dùng trí tuệ để phá tan vô minh phiền não. Cuối cùng Ngài đã biết cách làm chủ bản thân và an nhiên tự tại, giải thoát không còn bị mọi dục vọng trên cõi đời này làm lung lạc và thành Phật.

Điểm đặc biệt ở đây Ngài là một con người bằng xương bằng thịt, giống như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng được sinh ra từ bụng mẹ, lớn lên Ngài vẫn có vợ có con như tất cả mọi người thế gian. Ngài là một con người đi tu cuối cùng thành Phật để cứu độ chúng sinh, chúng ta cũng là con người nếu ai chịu tu theo lời Ngài chỉ dạy thì ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai. Bởi vì Ngài thường nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Ai trong chúng ta cũng đều có khả năng thành Phật như Ngài, bởi vì Phật là tính biết sáng suốt ngay nơi thân mỗi người, chỉ vì chúng ta chẳng chịu thừa nhận nên đời đời kiếp sống trong đau khổ lầm mê. Phật là con người như tất cả mọi người, vẫn sống làm việc phục vụ vì lợi ích chúng sinh mà không tham lam, sân hận, si mê dính mắc như người đời.

Cho nên trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Bồ tát Thường Bất Khinh dù bị người mắng chửi, đánh đập nhưng Bồ tát vẫn không buồn, không giận không oán, không ghét mà còn nói rằng: Tôi không dám khinh các người vì các người đều sẽ thành Phật. Bồ tát Thường Bất Khinh suốt cả cuộc đời chỉ làm một việc nhắc nhở mọi người đều có Phật tính.

Về mặt thực tế cuộc đời Phật là con người dám buông xả hết tất cả những gì thế gian mong muốn, để dấn thân đóng góp, phuc vụ, giúp đỡ, sẻ chia không biết mệt mỏi, nhàm chán bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, giúp cho con người biết cách làm chủ bản thân để cùng nhau chia vui bớt khổ bằng tình người trong cuộc sống. Về khía cạnh tâm linh Phật giúp cho ta nhận ra tính biết sáng suốt đang tiềm ẩn nơi mỗi người, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy tức là biết, biết mà không dính mắc bị dòng đời cuốn trôi, vậy không phải Phật tính là gì? Tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế, ai nhận ra và trở về sống với chân tâm của mình thì đời đời kiếp kiếp thoát khỏi mê lầm khổ đau.

2. TIN SÂU NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO


Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau không ai có quyền ban phước giáng họa, mình làm mình chịu không đổ thừa cho ai hết.

Chúng ta tạo nghiệp lành hay dữ hạt giống lành dữ ấy không bao giờ bị mất khi hội đủ nhân duyên, ta sẽ thọ nhận tất cả quả khổ vui do mình gây ra. Người biết tu và tin sâu nhân quả sẽ không oán trời trách đất, đỗ thừa tại bị thì là… sẵn sàng chịu nhận quả xấu mà không tạo thêm ân oán, hận thù do đó nhân quả ác dần hồi dứt sạch. Con người do tạo nhân quả không đồng đều nên có sự sai biệt rất lớn trong cuộc đời như giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, thông minh hay ngu dốt, sống thọ và chết yểu.

Vậy nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Như ta trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu. Nhân là mầm, quả là hạt, từ hạt sinh ra mầm, từ mầm phát triển thành cây và từ cây cho ra trái. Nhân quả luôn đan xen kết nối nhau, nương vào nhau mà hình thành và tương quan mật thiết với nhau.

Đặc tính của nhân quả là do nhiều nhân duyên kết hợp lại mà thành, không có cái gì một nhân mà cho ra kết quả được. Một ví dụ về hạt lúa người ta hay nói rằng hạt lúa sinh ra cây lúa, đó là lời nói rút gọn thật ra hạt lúa phải kết hợp nhiều duyên phụ thuộc như không khí, ánh sáng, đất, nước và sự chăm sóc của con người.

Giáo lý nền tảng của đạo Phật có khả năng chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, hay còn gọi là ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.

Chúng ta tạo nghiệp lành hay dữ, hạt giống lành dữ ấy rơi vào tàng thức. Đến khi đủ duyên chúng ta sẽ thọ nhận tất cả các quả khổ vui, người biết tu sẽ không than oán, hờn trách khi quả khổ đến mà sẵn sàng thọ nhận và tìm cách chuyển hoá. Do đó, con người khi mới sinh ra đã có sự bất đồng và sai biệt như giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu, sống thọ, chết yểu, thông minh hay đần độn.

Tuy gieo nhân thì phải gặt quả nhưng nhân quả không cố định, có thể thay đổi được. Vì vậy, trong thực tế có người sinh ra trong hoàn cảnh gia đình thiếu thốn, nghèo đói, xấu xí, tàn tật, nhưng họ cố gắng vươn lên, cuối cùng thành đạt, trờ nên giàu có, danh vọng tiếng tăm, có địa vị cao trong xã hội được mọi người kính trọng.

Khi hiểu được giáo lý nhân quả, chúng ta sẽ sống có trách nhiệm và ý thức được hậu quả xấu gây khổ đau cho người. Không ỷ lại hay đổ thừa mọi chuyện xảy ra là do “khi không”, “tự nhiên” mà chính ta phải chịu trách nhiệm đối với mọi hành vi tạo tác của bản thân.

Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ không đổ thừa do số mệnh định sẵn hay có sự an bài của đấng tạo hóa nào đó, mà không vươn lên làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh.

Do đó, tin sâu lý nhân quả sẽ giúp chúng ta có cách nhìn thông thoáng hơn, không bị lệ thuộc vào một đấng quyền năng thượng đế, mà chính mình là thượng đế của chính mình. Không một ai có quyền ban phước, giáng họa. Mọi sự khổ vui đều do mình tạo lấy và ta có quyền thay đổi hoàn cảnh sự sống tùy theo năng lực và sự tu tập của bản thân.

3. TIN SÂU TAM BẢO (PHẬT, PHÁP, TĂNG)

Phật là con người, Pháp là những lời dạy chân chính của Ngài, Tăng là những người truyền thừa, thay Phật hoằng dương chính pháp, sống trong tinh thần lục hòa, đoàn kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần chia vui sớt khổ, phục vụ vì lợi ích chúng sinh. Tăng là những người hiến trọn đời mình cho mục đích trên để cầu thành Phật, dưới hoằng hóa độ sinh vì lợi ích con người. Nhờ có Chư tăng, ni thay Phật hoằng truyền những lời dạy của Ngài khiến cho chính pháp được mở mang rộng rãi đến tất cả mọi người. Những ai hấp thu được tinh ba của Phật pháp, người đó ngày càng được an vui hạnh phúc hơn và sẵn sàng an ủi, sẻ chia, giúp đỡ vì tình người trong cuộc sống.

Nhưng Tăng cũng có nhiều loại. Đại khái lược lại có ba: Bồ tát tăng, thanh văn tăng và phàm phu tăng. Đây là tăng bảo chân chính xứng đáng được mọi người y chỉ tu học và tôn kính cúng dường.

Phật tùy duyên giáo hóa và đã nhập Niết bàn, nay chỉ còn lại những lời vàng ngọc của Ngài. Còn tăng thì thay Phật truyền trì chính pháp, hiến trọn đời mình cho sự nghiệp vì lợi ích chúng sinh. Tăng phàm phu là những người chân thật, nguyện hiến đời mình cho lý tưởng giác ngộ và giải thoát, đang kế thừa con đường Phật đạo, tuyên dương chính pháp giúp cho mọi người bớt khổ, thêm vui, luôn làm lợi cho chúng sinh. Tuy Phàm phu tăng chưa thành tựu đạo quả, nhưng nhờ học hiểu và hành trì tới đâu thì hướng dẫn tới đó. Vì vậy, ai phát tâm cúng dường phàm phu tăng vẫn được phước không thể nghĩ bàn.

Thực tế trong cuộc đời này, phàm phu tăng là số đông gần gũi với chúng ta nhất. Nếu ai vâng theo và gìn giữ năm điều đạo đức của Phật chế ra, vì lòng từ bi, ngăn ngừa chúng ta rơi vào hố sâu tội lỗi, giúp ta có ý thức được sự khổ đau của sự giết hại gây nên.

Chúng con nguyện sống với lòng từ bi, thương yêu bình đẳng, không làm tổn hại con người cho đến các loài vật. Không gian tham trộm cướp, không tà dâm ngoại tình, không nói dối, không uống rượu và dùng những chất kích thích có hại như xì ke, ma túy v.v… Phàm phu Tăng chân thật tu hành, thuyết pháp độ sinh mang tinh thần của các vị Thánh Tăng Bồ Tát và Thánh Tăng Thanh Văn.

Phàm phu tăng là số đông cho nên quý phật tử dễ gần gũi và tiếp cận hơn, chúng ta vẫn học hỏi được những điều hay, lẽ phải để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

Nói tóm lại, tin sâu Tam bảo là tin Phật, Pháp, Tăng, khi chúng ta tin, không nên thần tượng hóa, vì thần tượng hóa dễ sụp đổ và mất tín tâm. Chỉ thấy thầy mình hay, thầy mình giỏi, vì vậy dễ dẫn đến tư tưởng phê bình, chỉ trích người khác do đó làm mất đi sự hòa hợp trong tăng đoàn gây sự chia rẽ.

Tăng là đoàn thể sống trong an vui hòa hợp. Vì lợi ích số đông mà nhiều người cùng sống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tinh thần vô ngã vị tha.

4. SÁM HỐI LÀM MỚI LẠI CHÍNH MÌNH

Đạo Phật không dạy chúng ta trốn tránh cuộc đời hoặc chối bỏ sự thật của tội lỗi mà tìm cách sám hối để làm mới lại chính mình. Sám hối là sám lỗi trước, nguyện không cho tái phạm lỗi lầm xưa. Hối là ngăn ngừa lỗi sau, không cho phát sinh kể từ ngày hôm nay. Sám hối đúng nghĩa là phải có tâm hổ thẹn và cầu tiến.

Người biết hổ thẹn sẽ không dám cho tội lỗi phát sinh hoài. Nhờ vậy, người thành tâm sám hối thì tội lỗi dần dần được tiêu trừ.

Ai trong chúng ta không một lần vấp ngã dù ít hay nhiều. Nhưng điều quan trọng hơn hết là khi bị vấp ngã, chúng ta có can đảm đứng lên hay không?

Sám hối là tinh thần cầu tiến, làm mới lại chính mình. Với tinh thần cầu tiến, biết hổ thẹn, nhờ sám hối chúng ta sẽ không tái phạm lỗi lầm xưa. Với lòng chí thành thiết tha sám hối, sẽ giúp cho chúng ta vơi bớt tội lỗi và từ từ hết sạch.

Nhờ sám hối mà tâm ta ngày càng trong sạch. Dám sám hối là một việc làm can đảm, khiến tâm cống cao ngã mạn, tự ti, mặc cảm, lần lần thuyên giảm, nhờ vậy ta càng ngày càng sống tốt hơn ít phạm phải lỗi lầm.

Tu mà không gan dạ sám hối quả thật là người hèn nhát, không xứng danh là một con người. Sám hối là phương pháp sách tấn mạnh nhất. Nhờ sám hối, dù có tạo tội bao nhiêu, chúng ta vẫn là người tốt trong hiện tại và mai sau.

Tóm lại, sám hối là một phương pháp tu hành rất thiết thực, có lợi ích cho hiện tại và mai sau. Người đời vì không biết, nên một khi có lỗi lầm thì ém nhẹm giấu diếm, không cho ai biết, tìm cách che giấu tội lỗi. Vì thế tội lỗi ngày càng thêm chồng chất, cuối cùng hết phước, chịu họa không thể lường. Người xưa nói:“Người không gặp hoạn nạn, không biết quay đầu sám hối”. Do đó mà đại đa số người đời bị sa hầm sụp hố. Đến khi tỉnh ngộ, hiểu ra, mới biết sám hối là điều cần thiết cho tất cả mọi người chúng ta.

5. ÁP DỤNG LỜI PHẬT DẠY

Làm phước bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ, niệm Phật, tụng kinh, thiền quán, hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh, đó là những tiêu chí đầu tiên Phật dạy chúng ta. Nhờ vào công đức của những việc làm trên, chúng ta sẽ giảm bớt đi lòng tham, ích kỷ, nhỏ nhoi, ti tiện. Thấy rõ sự sống của chúng ta không thể tách rời nhau mà mọi người cần phải có trách nhiệm thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống với tinh thần chia vui sớt khổ.

Tụng kinh nhằm mục đích hiểu lời Phật dạy, để ta biết được điều hay, lẽ phải, mà áp dụng vào trong đời sống hằng ngày nhằm chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, ngay trong giờ phút hiện tại.

Tụng kinh để thấm nhuần lời Phật dạy, có ích thiết thực trong việc hành trì, gội rửa thân tâm chúng ta ngày càng được trong sạch hơn.

Tụng kinh là cơ hội tốt nhất để ta học hỏi, tìm hiểu, tư duy, quán chiếu soi xét lại chính mình. Nhờ thuờng xuyên nghiệm xét lời Phật dạy chúng ta thấy biết rõ ràng chỗ si mê chấp ngã để làm tổn hại cho người và vật.

Tụng kinh không phải để chúng ta cầu nguyện van xin Phật hay Bồ tát giúp cho mình tai qua nạn khỏi, gia đình được nhiều hạnh phúc, làm ăn được khấm khá.

Tụng kinh để cho ba nghiệp: thân, miệng, ý, của chúng ta hằng thanh tịnh, nhờ thân ngồi ngay ngắn, miệng tụng lời Phật dạy, ý nhiếp tâm vào lời kinh, nhờ vậy cảm thấy bình yên hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Niệm Phật để giúp ta nhớ nghĩ chân chính, không nhớ nghĩ lăng xăng, có hại cho mình và người. Niệm Phật tức nhớ Phật. Phật vì lòng từ bi rộng lớn cứu khổ chúng sinh. Niệm Phật để tâm được thanh tịnh, sáng suốt, để thấy biết đúng như thật. Niệm Phật là quá trình chuyền hóa ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, có công năng dừng lắng được điều ác chưa sinh, không cho phát sinh, điều ác đã sinh, không cho tái phát. Niệm Phật để nhớ nghĩ việc làm tốt của Ngài mà chúng ta cố gắng thực hành theo nhằm soi sáng muôn loài vật.

Thiền quán để chúng ta thấy rõ sự sai biệt trong cuộc đời đều do con người tạo lấy, giàu nghèo, tốt xấu, nên hư, phải quấy, thành bại, được mất, hơn thua, thông minh, dốt nát, sống thọ, chết yểu đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Người phật tử chân chính ngoài việc học hỏi ra còn phải dùng thiền quán để soi sáng muôn loài vật.

Nhờ quán chiếu sâu xa lời Phật dạy, giúp cho chúng ta dễ dàng cảm thông và tha thứ, bao dung và độ lượng, giúp đỡ và sẻ chia, an ủi và nâng đỡ bằng trái tim yêu thương và hiểu biết trong tinh thần đoàn kết, hoà hợp với tấm lòng vô ngã vị tha. Không thấy ai là người thù của mình, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Nhờ hiểu và quán chiếu lời Phật dạy, chúng ta biết cách buông xả mọi chấp trước do bám víu vào xác thân này mà ta có cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Cuối cùng là phát nguyện hồi hướng.

Hồi là xoay lại, hướng là hướng đến. Chúng ta xoay sự ưa thích, quyến luyến phiền não tham, sân, si có công năng tàn phá và làm tổn hại muôn loài vật trở thành sự thương yêu chân thật.

Hướng là hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, nên mỗi khi làm việc phúc lành nào, chúng ta đều hồi hướng, nhất là sau khi thuyết pháp, giảng kinh, chia sẻ… chúng ta hay đọc bài kệ:

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.

Phát nguyện và hồi hướng để chúng ta cố gắng duy trì những gì có lợi ích cho chúng sinh trong hiện tại và mai sau để tất cả đều được chung hưởng.

3 ĐIỀU TU HỌC


Hòa thượng trụ trì thiền viện Thường Chiếu dạy rằng:

“Học tập làm việc như uống ăn làm nên sự sống. Tu là hơi thở quyết định sự sống. Thân thể này thiếu tu cũng như thiếu hơi thở trong chừng phút giây là chết ngay”.

Để từng bước đạt được kết quả vững chắc, thiền viện Thường Chiếu đã đề ra một công thức tu học gồm 3 phương tiện: Học tập, hành trì và lao động như cái đỉnh 3 chân, nếu thiếu một chân thì sẽ không vững chắc và không thể thành tựu đạo pháp.

Trong ba phương diện trên, phương diện thứ ba “lao động” nó quan trọng không kém hai phương diện học tập và hành trì.

Lao động để hiểu được sự nhọc nhằn của đàn na tín thí. Họ phải nhịn ăn, bớt mặc để giúp cho chúng ta tu hành. Nhờ lao động mà chúng ta cảm thông được từ con người cho đến muôn loài, đều phải nương nhờ lẫn nhau. Không có một loài nào có thể tách rời khỏi sự cộng sinh của thế gian này mà bảo tồn sự sống. Ta không làm ruộng, nhưng vẫn có cơm ăn, ta không dệt vải nuôi tằm nhưng vẫn có quần áo để mặc, vì sự sống của nhân loại mà con người đã làm tổn hại không biết bao nhiêu là sinh vật khác.

Đây là điều kiện đầu tiên mà chúng tôi học được ở thiền viện Thường Chiếu. Lao động để hiểu được giá trị đích thực của nó, để bảo tồn sự sống, để được cùng nhau đóng góp và phát triển xã hội trong tình thương yêu nhân loại và muôn loài.

Lao động để biết được công lao cực khổ của con người, để phục vụ cho xã hội, cũng là lẽ sống thiết thực. Nếu thiếu lao động sẽ mất giá trị sự sống và con người không tồn tại. Ngoài ra, lao động còn là phương cách điều hòa trạng thái tinh thần, rèn luyện thể lực, hòa mình với thiên nhiên. Trong lúc lao động, chúng ta vẫn có thể an nhiên trì niệm, tu tập, lao động như một nhu cầu sống không thể thiếu trong xã hội.

Lao động như ăn cơm
Học hỏi như uống nước
Tu sửa như hơi thở.
(Lời Hòa thượng Tôn Sư)
Phương thức thứ hai là học tập.

Học ở đây để hiểu lời Phật dạy, ta phải biết một cách rõ ràng, thấu đáo, tường tận. Khi hiểu được rồi, chúng ta phải biết áp dụng vào trong đời sống hằng ngày nhằm chuyển hóa phiền não tham, sân, si thành vô lượng trí tuệ và từ bi.

Đức Phật không bắt buộc chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào những lời dạy của Ngài, mà Ngài muốn chúng ta chiêm nghiệm, quán xét, tư duy, soi sáng, khi ta thấy rõ lợi ích thiết thực của việc học hỏi lời Phật dạy và áp dụng tu hành có lợi lạc thì ta mới tin.

Nhờ học hỏi mà chúng tôi đã nhận ra được sự sai lầm quá lớn lao với quan niệm chết là hết và không có nhân quả tội phước gì hết. Thuở thiếu thời, mới tám, chin tuổi đầu, làm gì chúng tôi có đủ nhận thức về sự đam mê hưởng thụ. Ấy thế mà tôi đã tiêm nhiễm soa đọa ở lứa tuổi này. Nhờ chiêm nghiệm lời Phật dạy, tôi đã biết được con người khi mới sinh ra chỉ với hai bàn tay trắng, đến khi nhắm mắt lìa đời cũng hai bàn tay trắng. Duy chỉ có nghiệp thức tốt hay xấu là con người phải mang theo như bóng với hình. Nghiệp thức là những hành động tốt hoặc xấu, từ thân, miệng, ý mà chúng ta huân tập mỗi ngày, lâu dần trở thành thói quen. Thói quen đó, có sức mạnh chi phối, dẫn dắt chúng ta tới chỗ xấu hay tốt cho kiếp sau, tùy theo nghiệp nhân đã gieo tạo trong hiện tại.

Nghiệp là những hành động do ta huân tập hằng ngày được lặp đi, lặp lại nhiều lần, lâu ngày trở thành thói quen. Chính thói quen đó có sức mạnh sai sử chúng ta trở lại. Như việc hút thuốc chẳng hạn, lúc mới bắt đầu, bắt chước bạn bè hút thử. Những điếu thuốc đầu tiên, nó chỉ cho ta cái cảm giác đắng hôi, khó chịu mà thôi. Lúc này thì ta làm chủ nó, muốn hút hay không hút tùy ý dễ dàng. Nhưng lâu ngày, dài tháng khi đã quen với hương vị cay đắng ấy rồi thì sự xúc tác của nó mới có tác dụng. Lúc này, điếu thuốc là vật thơm ngon kỳ lạ, thiếu nó ta không thể chịu nỗi ngáp vắn, ngáp dài. Vì sao? Vì cơ thể ta đã quen với hương vị của nó rồi.Thiếu nó là gây ra trạng thái trong người bức xúc, xốn xang, khó chịu, chảy nước miếng, nước mũi, thèm khát một cách lạ thường. Khi tâm trạng thèm khát phát sinh làm cho ta cảm thấy khó chịu, vật vờ như thiếu cái gì trong cơ thể mình. Những khi cơn nghiện trỗi lên, thì lúc ấy ta thấy trên đời nay không có gì quý hơn điếu thuốc. Nếu khi đó có liền một con “dế nhủi” thôi là đã hấp dẫn rồi. Huống hồ là được thưởng thức một điếu thuốc nguyên vẹn với tách cà phê nóng.

Quý vị biết dế nhũi là gì không? Dế nhũi là phần tàn thuốc còn sót lại khi người ta hút thuốc gần hết rồi quăng đi. Trong lúc ghiền chỉ cần một con dế nhũi thôi là đã tạo cảm giác dễ chịu rồi, huống chi là đầy đủ.

Như trường hợp thực tế của bản thân tôi, khi còn nhỏ có thói quen mút móng tay, đến nỗi hai cái răng cửa mòn hết một nửa. Mỗi lần tôi mút, cạy răng cửa như vậy là một lần khổ đau. Vì cảm giác khó chịu nhức đầu, có khi giật bưng bưng cả mặt. Mỗi khi phiền muộn điều gì là tôi càng cạy răng nhiều hơn. Cạy càng nhiều thì càng nhức đầu. Vậy mà cho tới năm 47 tuổi, nhờ một bác sĩ nha khoa là một phật tử thuần thành, pháp danh Xuân Anh, giúp công quả trám và nhổ thay răng cho tôi. Kể từ đó tôi mới chuyển được nghiệp cạy răng của mình.
Tất cả các vị thấy ghê hồn chưa, đó là thói quen không tạo giá trị, chỉ kích thích cảm giác khó chịu. Vậy mà tôi phải mất gần 40 năm mới có thể chấm dứt được. Như thế có phải là nhờ tha lực hoàn toàn không? Xin thưa với tất cả quý vị là có, nhưng không phải hoàn toàn nhờ vào tha lực, mà đạo lý nhà Phật nói “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này như thế này thì cái kia như thế đó”.
Ở đây nhà Phật gọi là nhân duyên chuyển nghiệp, chính vì sợ cạy răng tiếp sẽ bị khiếm khuyết, mất vẻ đẹp của răng và đau khổ, nên tôi chấm dứt không cạy răng nữa. Vì nghiệp xấu chiêu cảm quả báo, nên phải chịu trong một thời gian dài. Nay hội đủ duyên lành cùng cộng nghiệp tốt tôi đã chuyển được thói quen xấu.

Thí dụ về cái răng nói trên là tạo nghiệp cảm đau khổ mà còn khó bỏ. Thử hỏi, nếu chúng ta đã gieo tạo nghiệp cảm luyến ái khoái lạc thì làm sao mà có thể dứt bỏ được? Quả là “vượt cạn lên bờ được mấy ai”. Từ đó nhà Phật chỉ cho chúng ta phương pháp ngăn ngừa những điều tội lỗi và cố gắng duy trì phát sinh những điều thiện lành tốt đẹp để mình và người được lợi ích. Đó là giới. Giới như mảnh đất tốt cho muôn hạt giống lành nẩy mầm, sinh sôi, phát triển.

Muốn trì giớ cho tốt, đầu tiên chúng ta phải tin Phật là con người như tất cả mọi người, Ngài có khả năng thành Phật thì chúng ta cũng có khả năng thành Phật. Nếu chúng ta cố gắng kiên trì, bền bỉ, quyết tâm buông xả những thói hư tật xấu, đồng thời biết bố thí cúng dường, an ủi sẻ chia, giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên.

- Tin Phật pháp có khả năng giúp cho tất cả chúng sinh vượt qua nỗi khổ niềm đau, để sống bình yên hạnh phúc.
- Tin sâu nhân quả nghiệp báo, gieo nhân tốt hưởng quả tốt, gieo nhân xấu chịu quả xấu.
- Tin tất cả mọi người có khả năng chuyển hóa nghiệp xấu ác thành nghiệp thiện lành tốt đẹp.
- Tin chính mình làm được tất cả những điều thiện lành tốt đẹp có lợi ích thiết thực cho tất cả mọi người.
- Phải biết sám hối, quyết chừa bỏ thói hư tật xấu, làm lại cuộc đời.
- Phát nguyện lớn vì lợi ích Tam Bảo, vì lợi ích tất cả chúng sinh đời đời kiếp kiếp đi theo con đường đạo Phật.

Phương thức thứ ba là hành trì để chuyển hoá.

Phật ra đời tùy bệnh chúng sinh mà cho thuốc. Chúng sinh có nhiều bệnh thì đạo Phật có nhiều thuốc. Ai được nhận thuốc thích hợp bệnh mau hết, không có pháp môn nào cao, không có pháp môn nào thấp.

Thí dụ, từ Sài Gòn đi Hà Nội, người đi máy bay, người đi tàu hỏa, người đi xe đò, người đi xe gắn máy, xe đạp, hoặc đi bộ v.v… Nếu ai chịu đi cũng đều đến đích tùy theo nhu cầu nhanh chậm mà chọn phương tiện cho thích hợp.

Hơn nữa, nếu ai siêng năng tinh tấn tu hành đúng phương pháp, không lười mỏi thì kết quả sẽ càng nhanh hơn.

Nước trăm sông đều chảy về biển cả. Nói tóm lại, tùy theo sở thích, khả năng mà ta áp dụng tu hành chuyển hoá. Phương pháp nào của đức Phật chỉ dạy cũng đều số một cả, tùy theo nghiệp báo sai biệt của mọi người và mức độ phát huy năng lực tu hành của chúng ta mà được kết quả sớm hay trễ mà thôi. Cho nên có câu:

Truyền trao mãi không thôi
Chẳng bao giờ dứt mất
Chỉ vì chẳng chịu nhận
Nên đành chịu khổ đau.

Khả năng con người, nếu nhịn ăn phải từ 60 ngày đến 120 ngày mới chết. Nếu nhịn uống phải từ hai tuần đến một tháng mới chết. Còn thở ra mà không hít vào chỉ trong chừng phút giây là có thể chết ngay.

Đạo lý học tập, làm việc và hành trì không thể thiếu trong nhu cầu sự sống của con người. Nếu ai biết áp dụng nhuần nhuyễn và tinh cần thì sẽ an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

TÂM SỰ ĐỜI TÔI

Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc lớp nghèo thành thị. Cha tôi có nhiều vợ, tám anh em tôi là dòng thứ hai. Vì vậy mà mẹ tôi phải khổ sở cả đời.

Khi được sinh ra, tôi đã mang theo thân xác bé nhỏ của mình chứng “đau ban khỉ”. Nếu chẳng nhờ vào phước đức mẹ và lương y chữa trị thì giờ đây tôi đã là một nấm mồ hoang xanh rêu, tốt cỏ từ lâu rồi.

Lớn lên một chút, tập nhiễm những thói hư tật xấu do môi trường sống mang lại. Tôi đã lao vào cuộc trác táng, tranh đua, danh lợi, ái tình. Tôi bản lĩnh đến nỗi tự tử mấy lần! Lần đầu nhờ bạn bè cứu sống, lần sau chính nhờ mẹ mà tôi được hoàn sinh theo đúng nghĩa của từ này.

Người ta thường nói: “Ngựa chứng” là ngựa hay, câu nói này chính xác đến độ nào? Riêng bản thân chúng tôi thì “Ngựa chứng” là “Ngựa chứng” mà thôi.

Tôi nhớ rất rõ, cái thuở sa đà, tôi thường chửi cha mắng mẹ, xem thường tất cả mọi người, làm khổ lụy đến người thân và ân nhân của mình. Hay đâu chẳng thấy, nhìn lại toàn bộ chỉ là gây tạo nghiệp chướng oan gia.

Cha tôi bảo:

- Nếu tao không lo chữa bệnh, thì mày đã chết từ hồi nhỏ rồi.

Tôi liền trả đũa:

- Tại ông đam mê nhục dục, mới có tôi, ông phải có trách nhiệm nuôi nấng và lo lắng cho tôi.

Nghe vậy, mẹ tôi lại khuyên:

- Con có gia đình rồi phải lo tu tỉnh làm ăn, chứ có đâu tụm năm, tụm ba cờ bạc, rượu chè, hút xách, giựt dọc hoài của người ta. Coi sao được.

Tôi lại trả treo:

- Ai có thân nấy lo, bà khỏi lo cho tôi. Tôi lớn rồi để tôi tự lo.

Tự lo đâu chẳng thấy, cho đến khi xuất gia đầu Phật, mẹ vẫn mỗi tháng ra thiền viện thăm tôi, còn cho tiền để mua kinh sách và làm các việc phước thiện. Bởi bà sợ tôi không chịu tu mà bỏ ra ngoài sinh sống.

Ý tưởng xuất gia ban đầu của tôi không phải vì mục đích chân chính, chỉ vì bất đắc dĩ phải chọn lựa một trong hai là tự tử hay xuất gia.

Thất chí, bất mãn, buông lung, liều lĩnh, nghi
loading...