Kiến thức

Những lời khai thị về phóng sinh của các đại tổ sư

Thứ ba, 13/04/2023 08:00

Điều quý báu nhất của mỗi chúng sanh đều là mạng sống. Giết hại chúng thì chúng oán hận nhất, oan cừu kết sâu nhất, cho nên nói nghiệp giết hại là nặng nhất. Ngược lại, cứu sống được chúng thì chúng cảm kích nhất, tạo được nhiều phước thiện nhất, cho nên nói công đức phóng sanh là đệ nhất.

1. Đại sư Trí Giả:

Đại sư Trí Giả (12) được tôn xưng là Phật Thích Ca tái thế. Ngài sống vào giai đoạn các đời Trần, Tùy ở Trung Hoa.

Đại sư nhìn thấy ngư dân ven biển ngày ngày bắt cá sát sanh. Ngài khởi lòng từ bi, liền dùng tiền cúng dường mua được một nơi ven biển Thượng Hải làm ao phóng sanh. Lại vì ngư dân giảng kinh nói pháp. Nhóm ngư dân sau khi nghe pháp đều đổi ngành chuyển nghiệp, tôn trọng mạng sống, ham làm điều thiện, còn đem hộ lương 63 sở ở ven biển có từ 300-400 dặm làm ao phóng sanh. Đây là nơi phóng sanh đại quy mô sớm nhất từ trước đến nay trong lịch sử Trung Hoa. Vật mạng được cứu sống có đến hàng vạn ức. Tây Hồ hiện nay tức là ao phóng sanh mà năm xưa Đại sư sáng lập.(13)

2. Đại sư Vĩnh Minh:

Đại sư Vĩnh Minh tương truyền là Phật A Di Đà từ bi thị hiện vào thời Ngũ Đại ở Trung Hoa. Đại sư, trước làm quan coi kho ở huyện Dư Hàn. Thường muốn làm việc phóng sanh nên lấy tiền trong quốc khố để mua: tôm, cá, chim... mà phóng sanh. Đến khi truy cứu bị khép tội lấy trộm quốc khố, phải xử tử hình, nhưng Ngài trước sau mặt không đổi sắc. Quốc Vương lấy làm lạ, gạn hỏi nguyên do. Đại sư đáp rằng: “Tôi vì phóng sanh nên mới làm việc này. Nay đã cứu được hàng ngàn, hàng vạn sinh mạng. Nhờ công đức này để vãng sanh về Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, vì thế nên vui mừng chứ không hề lo sợ”. Vua hiểu chuyện, tôn trọng đức hạnh của Ngài bèn ra lệnh xá tội. Từ đó Ngài xuất gia làm Tăng sĩ, trọn đời niệm Phật tu hành, đắc đạo chứng quả. Đời sau tôn xưng Ngài là Tổ thứ sáu của Liên Tông (tức Tịnh độ tông).

3. Đại sư Huệ Năng:

Đại sư Huệ Năng là Tổ thứ sáu của Thiền Tông. Từ sau khi được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai truyền tâm ấn, vì tránh sự bức hại của kẻ xấu nên đi về Thiều châu ở Phương Nam mà ẩn mình, giấu kín thân phận, cùng sống chung trong một đoàn thợ săn.

Đoàn thợ săn giao cho Ngài giữ lưới. Ngài lấy tâm từ bi làm hoài bão, gặp những con vật như: sói, cọp, nai, thỏ... bị sa lưới, đều tìm cách để phóng sanh. Phóng sanh như vậy được 16 năm, vật mạng được cứu sống không thể tính đếm hết, lại còn cảm hóa được nhóm thợ săn đổi nghề hướng thiện. Sau này, Đại sư ở tại đạo tràng Tào Khê làm hưng thịnh Thiền Tông, truyền khắp mọi nơi.

4. Đại sư Hàn Sơn và Đại sư Thập Đắc:

Đại sư Hàn Sơn tương truyền là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thị hiện, còn đại sư Thập Đắc tương truyền là Bồ Tát Phổ Hiền thị hiện.

Đại sư Hàn Sơn hỏi Ngài Thập Đắc: “Phóng sanh có thể thành Phật được chăng?” Đáp rằng: “Chư phật vô tâm, duy chỉ lấy từ bi làm tâm. Người có thể cứu cái khổ của sinh mạng tức là thành tựu tâm nguyện của chư Phật. Cho nên, sinh một niệm từ bi, cứu sống một sinh mạng tức là tâm nguyện của Bồ Tát Quán Thế m vậy. Ngày ngày làm việc phóng sanh thì tâm từ bi cũng ngày ngày tăng trưởng, mãi mãi không ngừng, niệm niệm đều chảy vào biển lớn đại từ bi của đức Quán Thế m. Khi ấy, tâm ta tức là tâm Phật, sao lại chẳng thành Phật?”

Cho nên biết rằng: nhân duyên phóng sanh chẳng phải những điều lành nhỏ nhặt có thể so sánh được. Phàm là người đồng nguyện như ta nên rộng hành khuyến khích, khéo léo khiến cho mọi người đều biết trở về với tâm từ bi của chính mình mà hóa độ chúng sanh.

Lợi ích của việc phóng sinh

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

5. Thiền sư Chí Công:

Vua Lương Võ Đế hỏi Thiền Sư Chí Công rằng: “Công đức phóng sanh như thế nào?”

Thiền Sư đáp rằng:“Công đức phóng sanh không thể hạn lượng. Trong kinh dạy rằng: Muôn loài chúng sanh đều có tánh Phật, chỉ vì mê vọng nhân duyên nên khiến cho thăng trầm khác biệt. Cho đến sanh tử luân hồi trở thành quyến thuộc với nhau, thay đầu đổi mặt chẳng nhìn ra nhau được nữa. Nếu phát được tâm hỷ xả, khởi niệm từ bi, người chuộc mạng phóng sanh thì đời này ít bệnh sống lâu, tương lai chứng được quả Bồ Đề”.

6. Thiền Sư Phật Ấn:

Thiền sư Phật Ấn có kệ rằng:

“Miếng ăn, miếng trả ắt chẳng sai

Lời chư thánh xưa nào hư dối?

Giới sát, niệm Phật, thường phóng sanh

Quyết về Tây phương, bậc Thượng phẩm.(14)

7. Đại Sư Liên Trì:

Đại Sư Liên Trì sống vào triều đại nhà Minh, từ nhỏ ưa thích làm việc phóng sanh. Sau khi xuất gia, Ngài xây dựng ao phóng sanh ở hai nơi là Trường Thọ và Thượng Phương. Ngài có trước tác một bài Giới sát phóng sanh, khuyên dạy hết thảy người đời nên giới sát phóng sanh. Ngài cũng để lại cho hậu thế bức vẽ Liên Trì Đại Sư đồ giải. Tranh vẽ, văn chương của ngài đều đẹp đẽ phong phú, đều ân cần khẩn thiết khuyên răn người đời chân lý nhân quả báo ứng, cùng với nhiều sự thực chứng, cảm ứng rõ ràng nghiệp ác của việc sát sanh và nghiệp lành của việc phóng sanh. Đời sau tôn Ngài làm Tổ thứ tám của Liên Tông (tức Tịnh độ tông).

Sau đây là những lời khuyên của Ngài về việc giới sát phóng sanh:

1. Ngày sinh không được sát sanh:

Cha mẹ đau đớn, sinh ra ta vất vả. Ngày sinh ra ta chính là ngày mẹ ta chết dần đi. Vì vậy nên phải cấm tuyệt việc sát sanh, nên ăn chay, làm nhiều điều thiện, cầu cho cha mẹ tăng thêm phúc thọ. Cớ sao lại quên nỗi vất vả của cha mẹ mà nỡ lòng sát hại sinh linh?

2. Sinh con không được sát sanh:

Không có con ắt phải buồn lo, sinh được con thì rất vui. Sao không nghĩ xem, loài cầm thú cũng biết yêu thương con, cớ sao mình sinh con ra lại khiến cho con của loài khác phải chết? Như vậy có thể yên tâm được sao? Than ôi đứa trẻ vừa mới sinh ra, đã không vì nó tích đức mà lại sát sanh, thế chẳng là mê muội lắm sao?

3. Cúng giỗ không được sát sanh:

Khi cúng giỗ người đã khuất hoặc tảo mộ vào tiết xuân thu, đều nên cấm việc sát sanh để tạo phước đức. Trong tự nhiên sẵn có tám loại thực phẩm quý để dâng cúng,(15) đâu thể bới xương cốt dưới cửu tuyền lên mà ăn sao? Sát sanh để dâng cúng chính là đại bất hiếu!

4. Hôn lễ không được sát sanh:

Việc cưới hỏi ở thế gian, có đủ nghi lễ thì thành chồng vợ, nào có phụ thuộc vào việc sát sanh? Khi lập gia đình là đã bắt đầu nghĩ đến việc sinh con. Trước lúc sinh con mà làm việc giết hại, quả là nghịch lý. Như vậy là ngày lễ tốt lành mà lại làm việc hung dữ, giết hại, chẳng phải là mê muội lắm sao?

5. Đãi khách không được sát sanh:

Ngày lành cảnh đẹp, chủ hiền đãi bạn: rau, gạo, quả, trà, không trở ngại chi đến cảnh trí nhà Phật. Cớ sao lại giết hại mạng sống? Cùng cực béo ngọt, vui ca say sưa với cốc chén, giết hại oan uổng bao mạng sống trên mâm ăn! Than ôi! Người có tấm lòng, nhìn thấy như vậy chẳng buồn lắm sao?

6. Cầu an không được sát sanh:

Người đời có thói quen sát sanh để tế thần, mong thần phù hộ. Không nghĩ rằng mình tế thần là muốn tránh cái chết, cầu sự sống, nhưng giết hại mạng sống loài khác để mong cho mạng mình sống lâu quả thật là nghịch lý, tàn độc hung ác.

7. Buôn bán sinh sống không đưọc sát sanh:

Phàm là con người ai cũng phải vì cơm ăn áo mặc. Hoặc phải đi săn bắt, hoặc phải xuống nước bắt cá, mò tôm, hoặc phải giết trâu, bò, lợn, chó... cũng chỉ vì kế sinh nhai. Nhưng xét lại, những người không làm các nghề này cũng vẫn có cơm ăn áo mặc, đâu vì thế mà phải chết đói chết rét? Làm nghề sát sanh ắt sẽ chịu quả báo bị giết hại.

Lấy việc giết hại mà được giàu có thì trăm người chẳng có lấy một! Ngược lại còn phải chịu ác báo trong nay mai, không có gì nguy hại hơn thế. Sao không cố gắng thay đổi nghề nghiệp, chọn những cách sinh nhai hiền lành chẳng phải tốt hơn sao?

Người Phật tử phải luôn tâm niệm bảy điều này để làm kim chỉ nam trong đời sống hằng ngày.

Người giữ giới không sát sanh: được thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.

Nếu dốc hết sức làm việc phóng sanh, lại thêm chuyên tâm niệm Phật, không những tăng trưởng phước đức, mà còn nhất định sẽ được tùy nguyện vãng sanh, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, tiến lên địa vị không thoái chuyển.

8. Đại Sư Ngẫu Ích:

Đại Sư Ngẫu Ích dạy rằng:“Giết hại sinh mạng tức là giết mất các đức Phật tương lai trong tự tâm mình. Phóng sanh tức là cứu sống các đức Phật tương lai trong tự tâm mình. Nếu cứu sống các đức Phật tương lai, trong tự tâm tức là phép Tam Muội Niệm Phật chân thật. Tu tập phép Tam Muội Niệm Phật này tức là thường xuyên chuyển kinh Pháp Hoa đến trăm ngàn vạn ức bộ vậy”.

9. Đại sư Ấn Quang:

Đại sư Ấn Quang được xem vị đại sư đệ nhất của Tịnh Độ Tông kể từ năm Dân quốc (1912) tới nay. Đời sau tôn xưng Ngài là Tổ đời thứ 13 của Liên Tông (tức Tịnh độ tông). Đại sư hết lòng đề xướng việc giới sát phóng sanh, không tiếc sức lực. Trong nhiều bài thuyết pháp, Đại sư đều giảng rõ về sự lý của việc giới sát phóng sanh, khuyến khích đệ tử cố gắng giới sát phóng sanh. Nay xin ghi lại vài câu pháp ngữ của Đại sư về việc giới sát phóng sanh như sau:

“Người giới sát phóng sanh, đời sau được sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, hưởng phước vô cùng. Nếu lại có tu Tịnh Độ thì được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, công đức ấy thật vô bờ bến. Phàm những ai muốn cho việc nhà được bình an, thân tâm an ổn, tráng kiện, thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc, chỉ cần khởi sự từ việc giới sát phóng sanh, ăn chay niệm Phật mà cầu thì đều được cả. Phật giáo truyền sang phương Đông, chỉ rõ lẽ nhân quả báo ứng, khuyên người giới sát phóng sanh, bỏ việc ăn thịt súc vật mà theo cách ăn chay”.

10. Đại sư Hoằng Nhất:

Đại sư Hoằng Nhất là vị đại đức của Luật Tông trong thời cận đại, cũng đề xướng việc phóng sanh. Ngài dạy: “Xin hỏi quý vị, có muốn trường thọ chăng? Muốn lành bệnh chăng? Muốn khỏi tai nạn chăng? Muốn được con cái chăng? Nếu ai muốn thì nay đã có một phương pháp đơn giản, dễ thực hành, tức là phóng sanh vậy”.

11. Lão Hòa Thượng Hư Vân:

Lão Hòa Thượng Hư Vân là bậc Thiền Tông đại đức, cũng dạy chúng ta: giới sát, phóng sanh, đoạn ác tu thiện. Ngài dạy: “Đây là cơ hội muôn kiếp khó gặp, chúng ta phải dũng mãnh tinh tấn, phải trong ngoài cùng tu.

+ Tu tập bên trong tức là chỉ đơn độc tham một câu thoại đầu: Niệm phật là ai? Hoặc niệm một câu A Di Đà Phật, không khởi tham, sân, si, các tạp niệm, khiến cho chân như pháp tánh được hiển bày.

+ Tu tập bên ngoài tức là giữ giới sát sanh, đem Mười điều ác chuyển thành Mười điều thiện. Chớ nên suốt ngày rượu thịt buông lung, tạo thành tội nghiệp vô biên”.

12. Đại sư Diệu Thiện:

Đại sư Diệu Thiện cũng được Phật tử tôn xưng là đức Phật sống Kim Sơn. Việc phóng sanh là một trong các sinh hoạt thường ngày của Ngài. Ngài đối với các loài cầm thú như: chim, cá, rùa, ốc, cua... đều có lòng thương yêu, đối xử bình đẳng. Bất cứ đi đến đâu ngài cũng đều ưa thích làm việc phóng sanh.

Ngài từng nói với những người đệ tử đang chịu khổ báo rằng: “Ta tuy có thể tạm thời làm cho bệnh khổ của ông giảm thiểu, nhưng nghiệp giết hại từ nhiều kiếp trước của ông vẫn chưa tiêu mất, e rằng sẽ có mối lo chết yểu. Có một phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng hay nhất là làm việc phóng sanh và giới sát. Cho nên, phóng sanh là công đức lớn nhất. Ông nếu tin được lời tôi, hãy mau mau tùy sức mà mua lấy vật mạng để phóng sanh thì có thể tăng phước, tăng thọ”.

13. Cư sĩ Lý Bỉnh Nam:

Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói về việc giới sát phóng sinh như sau: “Chúng sanh từ xưa nay không dứt nổi nghiệp giết hại, ai ai cũng phạm vào việc sát sanh.

Sát sanh có thể chia làm hai loại: Một là trực tiếp, hai là gián tiếp.

+Trực tiếp là tự mình giết hại chúng sanh, cắt xẻo lấy da thịt mà làm thức ăn.

+ Gián tiếp là vì mình ăn thịt chúng sanh nên khiến cho người khác phải làm việc giết hại để phục vụ mình.

“Cái nhân tạo ra của hai loại sát sanh này tích tụ lâu ngày, gặp duyên thì kết thành cái quả của nạn đao binh, chiến tranh. Có người cho rằng, muốn cứu vãn nạn chiến tranh thì phải làm nhiều việc thiện như: sửa cầu, làm đường... Lời nói như vậy không thể tin cậy được. Bởi vì nay phải chịu nạn đao binh chẳng phải do cái nhân quá khứ phá hoại cầu cống, đường sá. Nay muốn lấy việc làm đường, sửa cầu cống mà giải trừ, thì là hai việc hoàn toàn khác nhau.

“Tôi xin đem phương pháp phóng sanh đơn giản nói với các vị: Trước tiên phải gia trì chú Đại bi vào một ly nước sạch, rồi rưới lên mình chúng sanh được phóng sanh, miệng niệm bài sám hối như sau:

Chúng con xưa nay tạo ác nghiệp, Đều do ba độc tham, sân, si,

Từ thân, miệng, ý mà sinh ra.

Nay đối trước Phật cầu sám hối.

“Sau khi niệm như vậy ba lần rồi, lại vì những súc sanh ấy mà niệm Tam quy y:

Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng.

Quy y Phật không đọa địa ngục. Quy y Pháp không đọa ngạ quỷ. Quy y Tăng không đọa súc sanh.

“Tại sao đối với chúng sanh phải nói Tam quy y? Bởi vì tất cả chúng sanh đều có hai cái mạng: Một là thân mạng, hai là huệ mạng.

+ Phóng sanh chẳng những cứu lấy thân mạng, mà cũng nên cứu lấy cái huệ mạng của chúng.

+ Nói Tam quy y cho chúng nghe là tạo nhân lành cho chúng, nếu nghe mà nhận được thì đời sau sẽ không phải rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu được thân người thì có thể phát tâm Bồ Đề, tin sâu Phật pháp, sẽ có khả năng thành Phật. Đây tức là cứu cái huệ mạng của chúng”.

14. Pháp sư Viên Nhân:

Pháp sư Viên Nhân dạy rằng: “Tật bệnh, ung thư, tai nạn... sở dĩ có thể bất hạnh sinh ra là duyên nơi nghiệp giết hại trước kia chúng ta đã tạo nên mà chiêu cảm lấy quả báo này.

Phương thức giải quyết chính là phóng sinh. Nhờ vào việc bỏ tiền, bỏ sức để cứu mạng phóng sanh nên có thể đền trả vô số món nợ sát sinh trước kia mà chúng ta đã thiếu.

“Điều quý báu nhất của mỗi chúng sanh đều là mạng sống. Giết hại chúng thì chúng oán hận nhất, oan cừu kết sâu nhất, cho nên nói nghiệp giết hại là nặng nhất. Ngược lại, cứu sống được chúng thì chúng cảm kích nhất, tạo được nhiều phước thiện nhất, cho nên nói công đức phóng sanh là đệ nhất.

“Những ai phê phán, hủy báng việc phóng sanh, hoặc cản trở nghi ngờ việc phóng sanh cần phải lưu ý. Vì cản trở người phóng sanh thì cũng giống như sát sanh, khiến cho hàng ngàn hàng vạn sinh mạng không được giải cứu, phải hàm oan mà chết. Tội lỗi đó thật là vô lượng vô biên. Nhất định phải gấp rút sám hối, sửa lỗi, nếu không thì khổ hình nơi địa ngục nhất định không tránh khỏi”.

Trích sách "Công Đức Phóng Sanh".

loading...