Sách Phật giáo

Thiền, sức khỏe, hạnh phúc và thăng tiến xã hội (P.3)

Thứ sáu, 23/01/2018 12:14

Thiền và yoga rất khác biệt nhau. Thiền là lắng đọng tâm tư, đi vào bên trong để thấy chính mình, và tìm cách thoát ra ngoài các phiền não và mộng tưởng điên đảo thoát khỏi tam độc tham-sân-si, để cuộc đời bớt khổ, giảm bệnh tật ngay trong giây phút hiện tại (Thiền Sức khỏe). Trong tương lai, thiền cũng là chiếc bè giúp cho hành giả vượt thoát vòng sinh tử luân hồi (Thiền Giác ngộ). 

Bài 3 Thiền quanh ta & Phương pháp định tâm

Vài loại thiền
Phương pháp định tâm
Một số câu hỏi - đáp

Cuốn “Thiền, sức khỏe, hạnh phúc & thăng tiến xã hội” mà quý vị đang có trong tay, chỉ đề cập đến vấn đề liên hệ với sức khỏe và cải tiến xã hội mà không bàn đến vấn đề giác ngộ giải thoát. Lý do là, vì nếu nói đến khái niệm Giác ngộ và Giải thoát như trong Phật giáo thì đối với nhận thức của đa số quần chúng vẫn còn quá cao. Con người, trước mắt vẫn cần phải đối diện với sự thiếu ăn thiếu mặc và bệnh tật, đặc biệt là các căn bệnh thuộc loại trầm cảm (depression). Tại Âu châu có đến 40% dân chúng bị bệnh nầy, ở Việt Nam tỷ lệ này cũng cao không kém (báo Tuổi Trẻ, 30.6.2013). Theo bác sĩ Herbert Benson, có từ 60-90% bệnh do căng thẳng (stress) mà ra (công bố năm 1975). Qua nghiên cứu, ông thấy, thiền tập có khả năng làm giảm căng thẳng, cho nên nó có thể được áp dụng trong việc điều trị bệnh tật.

Nhưng để tiến trình điều trị bằng thiền được tốt đẹp và thành công, thì yếu tố cần và không thể thiếu là: người hành thiền phải định được Tâm. Nếu tâm không định thì không có kết quả. Đó là trọng tâm của bài nầy.

Trước lúc bàn thêm PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÂM, chúng ta nên biết khái lược vài loại thiền đang hiện hành “xung quanh ta” cũng như cộng đồng người Việt trong và ngoài nước. Từ đó có thể chọn cho mình một pháp môn thiền để thực tập mà không bị tẩu hỏa nhập ma. VÀI LOẠI THIỀN đang hiện hành trong xã hội:

1. Thiền khai mở luân xa: Hành giả được hướng dẫn, tưởng tượng một làn sóng chạy từ rốn lên đầu, vòng ra sau lưng rồi lại về rốn, lên đầu. Lúc được hỏi tại sao thiền chữa được bệnh? Người hướng dẫn trả lời, người ngồi thiền lấy năng lượng của vũ trụ để chữa bệnh. Đây là câu trả lời theo ý nghĩ riêng, không có cơ sở khoa học. Vì lấy năng lượng như thế nào, lấy nhiều ít, có chứng cớ khoa học không?

2. Thiền xuất hồn: Mở những điểm huyệt, phóng linh hồn đi học đạo với những bậc thầy mà mình chưa hề biết chưa hề gặp. Vì thế, thiền sinh dễ tin vào những điều huyễn hoặc. Người ấy dạy gì tin theo cái đó. Rất nguy hiểm. 

3. Thiền luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần: Người tu tưởng tượng đem tinh lên đầu để luyện thành thần khí. Đây là thiền của những người tu tiên. 

4. Thiền nhân điện: Nhiều năm trước, một số người Việt Nam theo thiền nhân điện vì được đồn đãi những chuyện rất “hấp dẫn” như chữa lành tất cả các loại bệnh, trồng cây không cần tưới nước nó cũng mọc tươi tốt. Đàn ông có thể mang thai. Ngay cả việc có thể ngăn chặn không cho động đất xảy ra v.v. Nhưng dưới ánh sáng khoa học, những người có óc đầy tưởng tượng đến độ hoang đường “tự ngôn chứng thánh” như thế, sẽ không còn được ai tin tưởng nữa. (Theo trang An Ninh Thủ Đô, 22.10.2011).

5. Thiền Yoga: Thiền yoga chủ đích làm cho thân khỏe mạnh. Hiện có nhiều trung tâm dạy yoga tại Việt Nam. Mỗi ngày tập khoảng 2 giờ, tuần 5 ngày. Phí tổng khoảng trên 500 nghìn đồng mỗi tháng, tùy theo địa phương.

Hiện nay tại Việt Nam, phỏng đoán, có rất nhiều trung tâm thiền đủ loại như trên.

Ngoại trừ thiền yoga, có những mối liên hệ với thiền của Phật giáo, bốn loại thiền còn lại như đã đề cập trên, không phải là Thiền Phật giáo mang tính khoa học. Cho nên, người thực tập thiền, nếu không chọn một loại thiền được phát xuất từ đấng Giác Ngộ hoặc được soi rọi qua ánh sáng khoa học thì, đôi lúc sẽ gặp những điều hết sức bất cập. (Vui lòng xem thêm trong các trang web, dẫn trong phần TLTK ở cuối bài). 

Mặt khác, thiền Phật giáo cũng có nhiều loại khác biệt, giữa Nguyên thủy và Đại thừa, và nhiều trường phái khác nhau trong các quốc độ và giữa các Tổ Sư Thiền. Nguyên thủy có:

- Thiền tứ niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp). Được viết bằng tiếng Anh, có thể xem thêm bản dịch của Thiền sư Nhất Hạnh (Sutra of the Four Establishments of Mindfulness) hay bản tiếng Việt của hòa thượng Thiện Siêu, và tập sách nhỏ hướng dẫn thực tập Thiền tứ niệm xứ của thầy Trí Siêu (Mỹ).

- Thiền minh sát tuệ (Vipassana, Pali, dùng trí tuệ để thấy rõ vạn pháp. Bắt đầu bằng pháp quán hơi thở để định tâm).

Đại thừa có các loại thiền như: 

Zen Meditation: truyền bá rộng rãi qua Tây phương từ Nhật, nhất là nhờ Đại sư Suzuki qua cuốn Thiền Luận, phần lớn nghiêng về triết lý, ít mô tả phương pháp hành trì. Hai phái thiền Nhật Bản trong “5 phái Thiền Đại thừa” được nhắc nhiều nhất là Lâm Tế (TQ: LinChi & Nhật: Rinzai) và Tào Động (TQ: Ts’ao-tung, & Nhật: Jodo Shinshu). Các hành giả Tào Động thường thực tập bằng cách Diện Bích (nhìn vào tường). Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma ‘Cửu niên diện bích’ và tác phẩm Bích Nham Lục. Phái Lâm Tế “tích cực” hơn. Thiền sư đôi khi dùng gậy hoặc hèo để đánh thức lúc đệ tử ngủ gật. Cách hành thiền này trong lịch sử cũng được gọi là Thiền công án (Koan, Kung An). 

- Lục diệu pháp môn: sổ tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn, tịnh. 

- Không, Giả, Trung: vạn pháp không thực có nên gọi là không, tạm bợ gọi là giả. Người thấy được không và giả hòa hợp với nhau gọi là trung.

- Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền. Phần lớn chỉ ghi lại trong các Lục như Bích Nham Lục, Vô Môn Quan nhưng, hình như, không có phương pháp nào được ghi chép lại để hành giả thực tập. Ngoài ra, Thiền tứ niệm xứ cũng còn gọi là Như Lai Thiền (theo Ni sư Thích nữ Huệ Liên, trên mạng).

Danh sách các loại hình thiền tập còn dài. Tôi chỉ liệt kê vài loại như thế, để quý độc giả biết tên trong cả một rừng thiền (Thiền Lâm).
Các loại hình thiền của Phật giáo, tôi tâm đắc để chia sẻ với quý vị, là Thiền sức khỏe (meditation for health), chứ không phải Thiền giác ngộ (meditation for enlightenment). 

Nhiều thập niên qua, y giới và khoa học gia phương Tây tìm thấy Thiền Phật giáo có khả năng chữa trị bệnh tật, như quý độc giả đã thấy qua các bài trong cuốn sách nầy. Muốn có kết quả chữa trị bệnh tật, người hành thiền phải định được tâm.

PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÂM (One Pointed Meditation - Shamatha, Pali)

Các giai đoạn:

1. Chuẩn bị: Nên ngồi trên gối mềm để chân khỏi bị tê và dễ ngồi thế bán già (gác một chân lên bắp vế chân kia), hoặc kiết già (hai chân gác tréo lên nhau). Có thể ngồi trên ghế hay trên bậc cấp. Xem 5 cách ngồi thiền trong cuốn sách nầy.

2. Ngồi thẳng lưng, lưỡi để chạm nhẹ vào nếu răng cửa phía trong, hàm trên. Tay phải chồng lên tay trái, để gần rún hoặc hai tay bắt ấn Tam muội và để trên đầu gối. Mắt nhắm nhẹ nhàng (không quá chặt).

3. Tập trung chú ý: Thiền là sự tập trung TÂM, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. 

Nếu thiền giả không tập trung được ý tưởng, nghĩa là không định được tâm thì không có kết quả. Có mấy phương cách để định tâm: Vui lòng xem Bài số 1.

Cách định tâm dễ nhất và có kết quả nhất là Thiền thở (BreathMeditation). Thiền gia gọi là “Quán sổ tức” (Counting the Breath). Thiền thở cũng có hai loại: Thiền chỉ và Thiền quán. 

- Thiền chỉ: là tập trung tâm vào một đối tượng như một hình ảnh treo trên tường, hay tập trung vào một điểm giữa hai chặn mày hoặc trên đỉnh đầu. Bắt đầu hít vào thật sâu (bằng mũi) để buồng phổi căng lên. Kế tiếp, thở ra (bằng miệng) cho hết lượng không khí trong phổi. Hít vào, thở ra như vậy ba lần. 

Sau đó, hít vào, thở ra (bằng mũi) bình thường, nhưng tâm trí phải tập trung vào một đối tượng nào đó như vừa nói. Nếu vẫn chưa định được tâm thì hít vào rồi thở ra, đếm 1, hít vào thở ra đếm 2. Đếm như thế cho đến 10, rồi đếm lại 1. (Chú ý, không nên đếm quá 10 và ít hơn 5, vì khó tập trung tâm).

- Thiền quán: Có nghĩa là dõi theo hay nhận diện. Lúc hít vào, tâm biết mình đang hít vào. Lúc thở ra, tâm biết ta đang thở ra.

Tại sao phải dõi theo hơi thở? Vì, tâm và thân của chúng ta không hợp nhất với nhau. Tâm thường rong ruổi lang thang với những thứ không ích lợi như tham, sân, lo âu, sợ hãi, buồn phiền… Tâm cảnh nầy sẽ đưa con người đến tình trạng căng thẳng. Mà căng thẳng là một trong những nguyên nhân chính sinh ra bệnh tật. (Vui lòng đọc phần trả lời câu hỏi số 3, cuối bài nầy, và xem hình mô tả Phản ứng của sự căng thẳng, bài 2). 

Lúc dõi theo sự hít vào và thở ra, tâm ta sẽ lắng dịu, an lạc, vui vẻ. Các chất hormone không có cơ hội sinh ra, và bệnh tật được thuyên giảm. Thiền thở (quán sổ tức) là một trong những cách dễ nhất để định tâm mà Đức Phật đã chỉ dạy trong kinh “Quán niệm hơi thở” (Anapanasati sutta). Hầu hết chư Tôn đức tăng ni khuyên theo pháp Quán sổ tức. Bác sĩ Andrew Weil (Đại học Arizona, Mỹ), một trong những người đã thí nghiệm và cũng đề nghị sử dụng pháp Thiền thở để định tâm.

Sau khi tâm được an định, hành giả không cần đếm mà tập trung tâm theo hơi thở vào hơi thở ra (gọi là tùy tức, (Following the Breath). Hoặc tập trung tâm vào một điểm giữa hai chặn mày, trên chóp mũi, trên đỉnh đầu hoặc một hình tượng, một màu sắc (như trắng, đen) v.v. Nếu thiền đúng cách và định được tâm thì chúng ta sẽ nhận biết nhịp đập của tim giảm xuống, và cảm nhận được sự an lạc ngay lập tức. Nếu định được tâm liên tục trên 25 phút, chúng ta sẽ cảm nhận một làn “sóng” chạy nhẹ nhàng trong cơ thể. Và con người cảm thấy rất an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút ngồi thiền.

Những người tu Tịnh Độ (Thiền Tịnh Độ) phần lớn truyền qua Tây phương từ Nhật Tào Động (Jodo-shinshu) hay theo các đạo tràng Pháp Hoa, có thể định tâm bằng cách niệm danh hiệu Bổn sư, niệm Nam mô Diệu pháp Liên hoa kinh, hay tụng kinh Pháp Hoa. Nếu hành giả định được tâm thì thiền, Tịnh, Mật và Pháp Hoa Tông… đều có khả năng chữa trị bệnh tật.

Cụ thể, người tu Tịnh Độ: hít vào không niệm, thở ra niệm “A di đà Phật”. Đạo tràng Pháp Hoa: Hít vào không niệm, thở ra niệm “Diệu Pháp Liên Hoa” hoặc niệm danh hiệu Phật.

Đức Phật giáng trần để cứu độ tất cả chúng sanh, chứ không phải chỉ dành riêng cho người Phật tử. Do đó tín đồ các tôn giáo khác cũng có thể ngồi thiền để chữa bệnh, vì thiền không mang tính tôn giáo. Và dĩ nhiên là không bao giờ có trường hợp bị cải đạo. Người Thiên chúa giáo lần chuỗi Mân côi, là một trong các cách để định tâm. 

Một ngày có 24 giờ mà chỉ ngồi thiền được khoảng 1 giờ, 23 giờ còn lại thì như thế nào? Đáp: An vui thì khỏe mạnh, ưu phiền sẽ ốm đau. Có lẽ đây là câu trả lời ngắn mà đúng nhất. Lúc nào có Khoảng 200 cô giáo (hai lớp) niềm an lạc, tâm không dự buổi thuyết trình Thiền sức khỏe,cư sĩ Hồng Quang trình bày, tham sân si… thì đó là tại khách sạn 5 sao “Sài Gòn Đông Hà”, thiền, là sức khỏe. Do vậy, Quảng Trị, 1.6.2013 luôn luôn vui vẻ, an lạc, không cau có giận hờn. Ấy là thiền.

4. Xả Thiền: Hai bàn tay xoa vào nhau khoảng 4, 5 lần. Dùng ngón tay trỏ và ngón tay giữa vuốt nhẹ xung quanh vành mắt. Sau đó, hai bàn tay xoa nhẹ lên mặt. Kế, xoa lại hai bàn tay, rồi thoa lên lưng (quần), lên chân để chống đau lưng và tê chân, nếu có.

Mỗi ngày ngồi thiền hai lần, mỗi lần khoảng 20 phút, chúng ta sẽ tránh được nhiều bệnh tật.

“Thiền tập không mất tiền mua,
 Thân tăng sắc đẹp tâm vừa thảnh thơi”.

 (Trích trong “Những vần thơ lục bát”, tác giả Tâm Hòa)

MỘT SỐ CÂU HỎI - ĐÁP

1. Hỏi: Hiện nay, Phật giáo Việt Nam đang khôi phục lại pháp môn Tịnh Độ, cư sĩ quảng diễn Thiền sức khỏe, phải chăng có sự chồng chéo?

Đáp: Không, Thiền-Tịnh song tu (Pure land Meditation). Nếu quý độc giả đọc kỹ các bài viết của tôi về thiền, hẳn đã thấy: y giới và khoa học gia Tây phương sử dùng thiền (Phật giáo) một cách rộng rãi trong việc nghiên cứu và trị liệu bệnh tật, mà ít nói đến việc sử dụng các pháp môn khác. 

Vì sao? Vì người phương Tây đã sống trong nền văn hóa Kito, một nền văn hóa “xin cho” với đức tin mà không được phép nghi ngờ và phán xét. Cho nên, họ không có cơ hội thẩm tra lại những gì mà đức tin trao truyền một chiều. Chán sự áp đặt không được kiểm chứng bằng lý trí, nên họ thích những gì mang tính khoa học và khả năng “tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Chính vì thế, họ đến với thiền. Bản thân tôi cũng vậy, không thoát ra ngoài ảnh hưởng ấy lúc tìm hiểu các phương pháp trị liệu thân và tâm. Dùng trí tuệ và phương pháp khoa học là chìa khóa của việc học và hỏi.

Nếu để ý thêm, độc giả sẽ thấy, niệm Phật, lạy Hồng danh, tụng kinh cũng có kết quả cho việc trị bệnh, nhưng không cao và không nhanh như thiền. Phần trước của cuốn sách nầy, tôi tường thuật lại thí nghiệm của bác sĩ Phan Thị Phi Phi, giáo sư trường y Hà Nội để làm rõ thêm những điều vừa nêu. Theo thí nghiệm này, các bệnh nhân sida được khuyến khích tụng kinh 2 lần / một ngày tại nhà và 2 lần / mỗi tháng vào ngày rằm và mồng 1 tại chùa. Kết quả thu nhận được, rất phấn khởi: chỉ số bạch huyết cầu tăng lên, trung bình 4 điểm cho mỗi người. Bệnh được chặn đứng, không có diễn tiến xấu hơn, không dẫn đến tình trạng nguy hiểm tính mạng.

Thêm nữa, nếu để ý hình ảnh các đạo tràng tu Tịnh độ trên mạng, chúng ta thấy, hầu hết là quý bà lớn tuổi, cụ ông ít, còn thanh thiếu niên và các bạn trẻ cũng rất ít.

Lý do vì đâu? Khi chúng ta thuyết phục người trẻ đến với các đạo tràng Tịnh độ thì họ sẽ cho rằng mình chưa cần cầu vãng sanh, vì tuổi mới đôi mươi. Đời vẫn còn rất nhiều điều tốt đẹp, đáng để hưởng thụ kia mà! Cho nên, ở một góc độ nào đó, giới trẻ sẽ nghĩ sai lầm rằng: Phải chăng, đạo Phật là “đạo của người chết” Tu Phật thất, chùa Hoằng Pháp, TP HCM. nếu tu theo Tịnh độ.

Trên mạng PTVN, vài năm trước, tôi có đọc bài viết của tác giả Nghiêm Minh Kiên, anh đã đề cập rất đúng về vấn nạn nầy. Do vậy tôi thiết nghĩ, các lớp thiền tập vốn dĩ rất phù hợp cho tuổi trẻ. Vì tuổi trẻ thích cái mới, thực tế, hữu dụng và mang tính khoa học. Thiền đáp ứng được tất cả các nhu cầu nầy của giới trẻ. Tuổi trẻ, Chùa Bằng, Hà Nội Thiền & Khí công với TT.Viên Giác, TP.HCM

Quý phật tử lớn tuổi thì có vẻ phù hợp với pháp môn Pháp Hoa và Tịnh độ hơn, phương pháp hành trì cũng dễ hơn. Cho nên để kết hợp căn cơ của đa số phật tử, thì Thiền - Tịnh song tu, có lẽ là pháp tu tốt nhất cho hàng phật tử hiện nay?

2. Hỏi: Tôi có đọc nhiều bài viết về thiền của cư sĩ, nhưng vẫn thắc mắc, phải chăng có điều gì mầu nhiệm bí ẩn về thiền. Chỉ ngồi theo dõi hơi thở ngày hai lần, mỗi lần khoảng 20 phút mà trị được bệnh sao? Xin cư sĩ lý giải?

Đáp: Bạn nên đọc lại các bài viết về nguồn gốc của bệnh tật trong cuốn sách nầy để thấy:

Nếu thiền mà định được tâm, thì bạch huyết cầu gia tăng, hệ đề kháng mạnh. Cho nên ta nói thiền có khả năng chữa trị bệnh tật là vậy. Bài 1, trong sách có nêu thí nghiệm của khoa học gia Jon Kabat-Zinn về bệnh sida để chứng minh điều này. Trong bài cũng cho thấy, bác sĩ Herbert Benson, sau những tháng năm thí nghiệm, ông thấy, có từ 60-90% bệnh tật phát sinh là do căng thẳng (stress) (coi thêm số 11, phần TLTK). Thiền có khả năng làm giảm căng thẳng, nên thiền có khả năng trị bệnh. Như thế, Thiền trị bệnh là một phương thức khoa học, không có gì bí ẩn.

3. Hỏi: Tại sao căng thẳng (stress) phát sinh bệnh tật?

Đáp: Lúc giận hờn, sợ hãi, lo âu… thì sẽ bị căng thẳng. Lúc đó, não bộ báo động cho tuyến thượng thận (Adrenal glands) để tiết ra chất epinephrine. Tế bào thần kinh vùng dưới đồi não (Hypothalamus) tiết ra chất nor-epinephrine. Hai loại hormones nầy (epinephrine và nor-epinephrine) là những chất hóa học rất mạnh, có nhiệm vụ làm cho các giác quan nhạy bén hơn, các cơ bắp (muscles) rắn chắc hơn, nhưng sự tiêu hóa thức ăn bị giảm. Tim đập nhanh, phổi hô hấp mạnh, để đưa oxy tới các tế bào. Đường trong máu gia tăng để cung cấp nhiệt lượng cần thiết. Như thế, cơ thể chúng ta được xem như sẵn sàng ứng chiến (fight) mà không thể chạy trốn (flight) (xem hình minh họa trong bài 2). 

Nếu sự căng thẳng không còn nữa thì cơ thể trở lại bình thường. Nhưng trong xã hội máy móc ngày nay, con người thường xuyên bị căng thẳng, cái cũ chưa hết, cái mới đã sinh. Nên cơ thể con người luôn ứ đầy những chất hormone gây ra stress, tích tụ từ ngày nầy qua tháng nọ, làm cho:

- Hệ tim mạch thương tổn, bệnh tim phát sinh, cao huyết áp, đột quỵ. Ăn khó tiêu, bị tiểu đường, bệnh gan, v.v...

- Hệ đề kháng yếu, dễ bị vi trùng và vi khuẩn tấn công cơ thể, xương loãng vì thiếu calcium, eo và mông gia tăng mỡ, v.v...

Trong khi đó, thiền có khả năng làm giảm căng thẳng, nên thiền có thể chữa trị được bệnh tật từ gốc là thế. Biết vậy, ngoài việc thiền mỗi ngày hai lần như đã đề cập, chúng ta luôn luôn giữ tâm hồn an lạc bằng cách quán hơi thở (đi đứng nằm ngồi) để giữ tâm, không cho nó lang bang dong ruổi vào những nơi bất thiện (tham sân si). Đây gọi là Thiền hành động (meditation in action) hoặc Thiền chánh niệm (Mindfulness Meditation). Cũng nên biết thêm rằng, lúc tâm có sự an lạc và hỷ xả thì chất dopamine, nitric oxide, endorphins, và chất thần kinh dẫn truyền enkelytin… có thể tiết ra làm cho con người mạnh khỏe hơn, hệ đề kháng gia tăng, chống lại bệnh tật (Marco Visscher, May 2006 Issue, Wikipedia) và trong bài “Cầu an có an không?” quý vị nên đọc để thấy. Thính chúng hoan hỷ, vỗ tay.

4. Hỏi: Cư sĩ viết “Thiền có khả năng chữa trị bệnh tật, làm cho con người đẹp hơn, thông minh hơn, sống lâu hơn, sống có hạnh phúc hơn”. Cư sĩ có thể trình bày rõ hơn chăng?

Đáp: Tất cả những điều mà bạn vừa nhắc đến, tôi đã trình bày có tài liệu và hình ảnh cụ thể trong sách. Mong bạn đọc kỹ lại. Nhân đây, tôi chỉ trình bày lại vấn đề Thiền có khả năng làm cho con người sống có hạnh phúc hơn. Bạn có thể xem lại bài 2 sẽ rõ, khoa học gia và y giới tìm thấy mỗi vùng của não bộ, có một chức năng khác nhau. Vùng não bên phải, trước trán, liên hệ đến sự đau khổ. Vùng trái tương ứng, liên hệ đến sự an lạc. Lúc hành thiền, vùng trán bên trái gia tăng hoạt động làm cho con người cảm thấy có hạnh phúc an lạc hơn. Lúc sân hận, si mê, thì vùng bên phải phát triển, đem đến đau khổ. Đây là một bằng chứng khác mang tính khoa học, không có gì bí mật. Hiểu được chức năng của hai vùng não bộ vừa đề cập, ngoài giờ thiền, chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi (hành, trụ, tọa, ngọa) luôn luôn chánh niệm. Đó cũng là cách định tâm ngoài lúc ngồi thiền. Đọc kinh, niệm chú, lần chuỗi làm cho tâm an lạc. Đó là thiền.

5. Hỏi: Cư sĩ phân biệt Thiền giác ngộ và Thiền sức khỏe. Câu hỏi là, người tập Thiền giác ngộ có đem lại sức khỏe không? Và Thiền sức khỏe có đạt đến giác ngộ?

Đáp: Tôi nói Thiền giác ngộ và Thiền sức khỏe là một cách nói nhằm phân biệt hai “mục đích” hoặc hai giai đoạn khác nhau của người hành thiền. Xưa nay, tu thiền, người ta có khuynh hướng nghĩ rằng tu là để giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Nhưng ít ai nghĩ thiền còn có công năng chữa trị bệnh tật cho nhân loại. Nhiều thiền gia trong Sơn môn biết thiền có thể trị bệnh, nhưng không dám cổ động công khai vì chưa có bằng chứng mang tính khoa học.

Ngày nay, khoa học tiến bộ, y giới sử dụng các phương tiện như máy chụp cộng hưởng từ (MRI), máy chụp các điện não đồ, để biết sự vận hành và chức năng của não bộ. Cùng lúc các thí nghiệm lâm sàng và đo mức độ an lạc của các người đang thiền định. Họ cho thấy điều mà các phật tử ca tụng rất chính xác, “Phật là vô thượng y vương” (thầy thuốc trên tất cả các vua thầy thuốc của thế gian nầy). Xem thế, người tu thiền với mục đích giác ngộ cũng đem lại sức khỏe cho bản thân. Người tu thiền với mục đích sức khỏe, cũng có thể đạt giác ngộ. Xem hình Làn sóng não trong bài 2. Chúng ta thấy, lúc tâm bấn loạn (tham, sân, si, lo âu, phiền muộn) quá cỡ, sóng não (Beta) vận hành từ 14 đến 21 vòng trong 1 giây đồng hồ.

Nếu tâm định đến mức Delta, làn sóng não vận hành chưa đến 4 vòng trong một giây. Với trạng thái nầy, thiền giả có thể được xem như là đạt đến sơ thiền.

Người tu Tịnh độ, với trạng thái nhất tâm bất loạn, “tâm không tham luyến, ý không điên đảo, như vào thiền định. Phật và Thánh chúng tay nâng kim đài cùng đến tiếp dẫn, trong khoảng một niệm sanh về Cực lạc”. Do đó, Thiền, Tịnh và tụng kinh như quý vị trong Đạo Tràng Pháp Hoa mà định được tâm thì chỗ gặp gỡ trong các pháp môn tu hành không có ranh giới.

Quý vị đặt những câu hỏi thiết thực, bổ ích, làm sáng tỏ thêm những điều tôi trình bày trong sách. Rất tri ân quý vị. 

6. Hỏi: Nhân đây xin hỏi thính chúng một câu. Thông tin trên mạng có đề cập đến một trại tù tại bang Washington, thị trấn Seatle, Mỹ, dạy tù nhân ngồi thiền. Kết quả sau khi mãn tù trở về đời thường, số tù nhân có hành thiền một thời gian, tỉ lệ tái phạm chỉ có 56%. Số không ngồi thiền, có đến 75%, khác biệt gần 20%. Quý vị biết lý do tại sao? 

Đáp: Cô Thúy Hằng:

Con người phạm tội, phần lớn do tâm hồn thiếu bình thường, hay giận hờn, tham lam, cuồng tín… Lúc hành thiền họ có được sự an lạc trong tâm, sống đời có hạnh phúc, có hy vọng, có tình thương, nên ít tái phạm hơn những người tâm hồn bấn loạn và sân hận ngút ngàn. Tất cả đều vỗ tay cho câu trả lời chính xác có cơ sở khoa học.

Câu hỏi còn nhiều, các bạn chịu khó đọc vài lần cuốn sách nầy, sẽ tìm thấy những điều rất thực tế, rất khoa học, rất bổ ích mà y giới đã thí nghiệm và làm chứng cho lời dạy của Phật: “vạn pháp do tâm tạo”. Tâm an vui thì khỏe mạnh, ưu phiền sẽ bị ốm đau. 

Khoảng 800 thính chúng chia sẻ Thiền sức khỏe, Đại Tùng Lâm, Long Thành, 4.2012.

Ngoài ra, chế độ ăn uống và tập thể dục như đi bộ cũng rất cần cho sức khỏe.

Thiền có thể chữa trị bệnh tật. Nhưng điều đó không có nghĩa là thiền sẽ hoàn toàn thay thế thuốc. Thiền thuốc song hành có lẽ là giải pháp tốt nhất. Nếu cần, quý vị nên tham vấn các nhà chuyên môn.

Tóm lược, xã hội Việt Nam ngày nay có nhiều trung tâm “biến chế” Thiền lấy từ Phật giáo để chữa bệnh. Nhiều nơi đem lại kết quả rất tốt cho bệnh nhân. Nhưng cũng có không ít hệ lụy do việc khai mở luân xa và hướng dẫn thiền thiếu phương pháp khoa học. Do đó, cẩn thận là điều cần có, không nên theo những điều thiếu sự gạn lọc của lý trí và thiếu chứng cớ khoa học.

Thiền Tịnh, Mật, niệm Phật, tụng kinh Pháp Hoa hoặc lần chuỗi hạt, chuỗi Mân Côi, nên cần định được tâm mới có kết quả. Pháp định tâm không khó. Kiên trì luyện tập thì việc định tâm sẽ nằm trong tầm tay với.

Đến đây, bạn có thể hướng dẫn những người trong gia đình hoặc các người quen biết tại sở làm hoặc tại trường học?

1. Các em khoảng 4-5 tuổi có thể tập ngồi thiền được chưa?

2. Bạn đã chọn cho mình một phương pháp để định tâm?

3. Thiền và Tịnh, tại sao lại trở thành một vấn đề của người Phật tử sơ cơ?

4. Tại sao dõi theo hơi thở cũng là một vấn đề hệ trọng của thiền?

VÀI CÂU HỎI GỢI Ý TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ CHÚ THÍCH

1. Tẩu hỏa nhập ma khi mở luân xa 6: http://jojojotran.blogspot. com/2013/04/tau-hoa-nhap-ma-khi-mo-luan-xa-6.html, 2. Hậu quả của việc tùy tiện khai mở luân xa: http://www.totha. info/showthread.php?t=322 

3. Sự thật về luân xa 6: http://petrotimes.vn/news/vn/xa-hoi/su-that-ve-luan-xa-6.html VÀ http://www.nhantrachoc.net.vn/ showth...F-lu%C3%A2n-xa 

4. Mở Luân xa cần cẩn trọng! Nghiên cứu năng lượng học: http://sucmanhvothuc.com

5. Thiền Nhân điện khai mở luân xa: http://phatgiaonguyenthuy.com/news-2650/THIeN-NHaN-dIeN-KHAI-Mo-LUaN-XA.html 6. Nhân điện - bí ẩn hay hoang tưởng? http://anninhthudo.vn/ phong-su/nhan-dien-bi-an-hay-hoang-tuong/420370.antd 7. Mang thai nhờ truyền nhân điện! [Kienthuc.net.vn] 8. Truyền nhân điện giúp nam giới sinh con? http://bee.net.vn/ channel/2981/20120...ay-ba-1833708/

9. Gặp người dùng thiền định mở luân xa chữa bệnh cho 6 vạn người, bà Hồ Thị Thu: [http://laodong.com.vn/phong-su/ gap-nguoi-dung-thien-dinh-mo-luan-xa-chua-benh-cho-6-vannguoi/107110.bld ]

10. Khả năng chữa bệnh thần kỳ của thiền mở luân xa?[http:// vtc.vn/394-371847/phong-su-kham-pha/kha-nang-chua-benhthan-ky-cua-thien-mo-luan-xa.htm]

11. “International Journal of Stress Management” thường đăng tải nhiều cuộc thí nghiệm, của bác sĩ và chuyên gia, liên hệ giữa căng thẳng (stress) và bệnh tật, nghề nghiệp, tai nạn v.v. để có hướng giải quyết. Qua đó, chúng ta thấy căng thẳng là gốc của những biến cố xấu.
 
Bài 4: Thiền chánh niệm và não bộ
(Mindful Meditation and the Brain)

Tám điều ngạc nhiên về não bộ

1. Căng thẳng làm mất trí nhớ
2. Não bộ không thể làm nhiều việc cùng một lúc
3. Ngủ trưa cải thiện não bộ
4. Thị giác vượt trên các giác quan khác
5. Hướng nội và hướng ngoại 
6. Thích những người có đôi chút nhầm lẫn
7. Vận động thể lực có thể kết hợp tái tạo não bộ  
8. Thiền có thể tái tạo não bộ tốt hơn

“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì. Trái lại nếu tôi tin, tôi có thể làm thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ thành tựu như ý muốn”(1). Thánh Ghandi 

Những lực sĩ, kịch sĩ, nghệ sĩ, thương gia, lãnh đạo tôn giáo… muốn thành tựu và nổi danh họ không thể thiếu một điều then chốt, đó là sức mạnh của suy nghĩ tích cực (“the power of positive thinking”).

Đủ thứ kỹ nghệ ngày càng phát triển thì, cũng không thiếu những cơn bệnh trầm kha thiếu thuốc chữa mà nguyên nhân chính là do căng thẳng, lo âu, phiền muộn, sợ hãi, trầm cảm…, làm cho con người sống thiếu hạnh phúc, thiếu an lạc, bệnh hoạn, mau già, chết sớm. 

Vấn nạn nầy có thể giải quyết, nếu con người biết sử dụng thiền để thay đổi tư duy từ những ý nghĩ tiêu cực thành tích cực. 

Những lớp tiềm thức trong tâm của chúng ta (subconscious layers of our mind) đang bị đè nén bởi căng thẳng, bởi tham sân si…, nên mạnh dạn quyết chí đem thiền để đẩy chúng ra khỏi, tái lập một cuộc sống lâu dài hơn, có hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn, thông minh hơn và đẹp hơn, mà chỉ cần một ngày vài chục phút ngồi thiền. Chúng ta còn gì để do dự chăng? Dưới đây là 8 điều ngạc nhiên(2) về sự vận hành của não bộ mà người hành thiền nên biết.

1. Căng thẳng làm mất trí nhớ 

Thí nghiệm trên những con chuột cho thấy con nào bị căng thẳng lâu dài thì vùng hải mã của con đó bị teo lại. Vùng hải mã là nơi tập trung toàn bộ trí nhớ. 

Vấn đề được bàn cãi là phải chăng sau khi bị chấn thương rối loạn căng thẳng thì vùng hải mã bị teo lại. Và phải chăng người nào có vùng hải mã nhỏ hơn thì có chiều hướng dễ bị chứng chấn thương rối loạn do căng thẳng(3). 

2. Não bộ không thể làm nhiều việc cùng một lúc 

Từ lâu, con người nghĩ rằng cùng một lúc bộ não có thể làm được nhiều việc, nhưng thí nghiệm cho thấy, đó là điều không thể có (multitasking is actually impossible). 

Làm hoặc nghĩ nhiều việc cùng một lúc, não bộ hoạt động lui tới giữa các công việc ấy, chứ không phải não bộ vận hành tất cả các việc cùng một lúc (we're quickly switching back and forth between different tasks rather than doing them at the same time). 

Đó là một trong nhiều lý do giải thích tại sao chúng ta nên ăn cơm trong chánh niệm, thiền hành trong chánh niệm thay vì vừa ăn vừa đọc báo, vừa thiền hành vừa nói chuyện hoặc suy nghĩ lung tung…

Thí dụ: Chúng ta làm hai nhiệm vụ A và B cùng một lúc. Ta thấy não bộ không “giải quyết” hai việc cùng thời. Thay vào đó nó chạy tới chạy lui một cách “đau khổ”, và thay vì chỉ di chuyển cho một việc, thì nó lại sử dụng phần lớn năng lượng quan trọng của não cho việc di chuyển tới lui nầy.

Lúc não bộ vận hành một việc, phần não phía trước đóng vai trò lớn. Thí dụ, lúc chúng ta cần quả cam. Thùy não vùng trước trán, bên trong, báo cho các phần còn lại của não bộ để tay chúng ta đưa về phía dĩa cam, và tâm (mind) biết ta sẽ có được quả cam hay không. Cùng lúc, nếu ta lại muốn ly nước ngọt, thì não bộ tự động phân làm hai nhiệm vụ, và mỗi nửa bán cầu não tự hoạt động riêng rẽ. Tình trạng nầy làm não bộ bị yếu, khó hoàn thành nhiệm vụ cần có, vì nguồn năng lực bị chia làm hai.

Nếu ý nghĩ thứ ba cùng lúc xuất hiện, như ta cần trái chuối. Não bộ có khả năng quên một trong ba suy nghĩ cùng lúc, và chúng sẽ tạo ra sự nhầm lẫn tai hại gấp ba lần so với khi hai nhiệm vụ mà não làm việc cùng thời.

3. Giấc ngủ trưa cải thiện hiệu năng não bộ

Chúng ta biết, giấc ngủ rất quan trọng cho bộ não, giấc ngủ trưa (naps) cũng thế:

- Làm gia tăng trí nhớ: Thí nghiệm trí nhớ trên hai nhóm người bằng cách cho họ học thuộc lòng một số vấn đề được in trên các tấm thẻ (cards). Họ được nghỉ 40 phút. Một nhóm ngủ, nhóm kia thức. Sau đó, họ được thí nghiệm trở lại. Nhóm ngủ 40 phút có điểm thí nghiệm cao hơn, trung bình 80%. Còn nhóm kia chỉ được 60% trung bình cho mỗi người.

- Thí nghiệm cho thấy, những điều học thuộc lòng, trước tiên được chứa trong vùng hải mã của não, rất mong manh (fragile) và dễ bị quên (forgotten), đặc biệt là lúc não bộ bị buộc nhớ thêm một số vấn đề khác. 

Thời gian ngủ trưa, những điều đã nhớ dường như được đẩy vào vùng vỏ não mới (neocortex), các ký ức được chứa an toàn hơn, không bị chèn ép bởi những điều khác (overwrite).
 
4. Thị giác vượt trên các giác quan khác
(Your vision trumps all other senses)
Mặc dù thuộc một trong năm giác quan, nhưng thị hạnh nhân (amygdala) giác trội hơn tất cả các giác quan còn lại. Nghe một mẩu và các nhân liền kế nhau thông tin, ba ngày sau chỉ nhớ được 10%. Nhưng thấy một (neucleus accumbens). tấm hình thì nhớ được 65%.

Khi đọc một bản văn, não bộ phải định dạng nhiều hình nhỏ bé của các chữ để có thể hiểu mà đọc. Và như thế sẽ làm mất thì giờ…

5. Hướng nội và hướng ngoại 

Những người hướng nội và hướng ngoại là do các tế bào thần kinh trong bộ não của họ quấn lại với nhau một cách khác biệt. Như vậy họ khác nhau không phải vì người hướng ngoại ưa đi ra ngoài để giao tiếp, còn người hướng nội thì tính tình e thẹn, mà do sự:

- Khác nhau trong bộ não,
- Khác nhau về di truyền,
- Khác nhau về tiếp nhận sự tưởng thưởng.

Khi họ đánh bạc ăn (hay một trò chơi ăn thua nào đó), nhóm người hướng ngoại có nhiều hoạt động trong hai vùng não quan trọng: hạch cách xử lý các kích thích từ bên ngoài. Nơi người hướng ngoại, con đường tiếp nhận kích thích (cảm giác) từ mắt, tai, mũi và lưỡi, ngắn hơn so với người hướng nội. Con đường tiếp nhận này của người hướng nội dài hơn và phức tạp hơn liên quan đến các phần trong não như trí nhớ, hoạch định và giải quyết các vấn đề.

6. Thích những người có đôi chút nhầm lẫn

Ông Kevan Lee giải thích, người không bao giờ phạm lỗi sẽ có ít người chú ý hơn người thỉnh thoảng phạm lỗi. Sai lầm đôi chút tạo cho người khác chú ý đến chúng ta. Con người, ít nhiều, thường có lỗi, và đó như là một bản tính của người. 

Nhà tâm lý học Elliot Aronson thí nghiệm xem điều nhận xét trên có đúng không, bằng cách kêu gọi những người tham dự nghe đoạn băng thu các câu trả lời của một câu đố. Chọn đoạn thu băng gồm cả tiếng của một người gõ trên tách cà phê. Những người tham dự cuộc thí nghiệm được yêu cầu cho điểm thích ai. Nhóm người làm đổ ly cà phê lại gây được sự chú ý và có điểm cao hơn. Điều đó cho thấy, chúng ta có khuynh hướng không thích con người quá hoàn hảo, mà thích những người có đôi chút lỡ lầm.

7. Vận động thể lực có thể kết hợp tái tạo não bộ và tăng ý chí (Exercise can reorganize the brain and boost your willpower). 

Thân và tâm liên đới với nhau là điều dĩ nhiên. Hạnh phúc và luyện tập cơ thể cũng thế.

Tập thể dục suốt đời (A lifetime of exercise) làm cho nhận thức bén nhạy, nhớ dai, lý luận giỏi, tập trung chú ý tốt và giải quyết những vấn đề nhanh chóng.

Lúc vận động, não bộ nhận biết giống như lúc bị căng thẳng, nhịp đập của tim gia tăng. Để đối đầu với hiện trạng nầy, cơ thể tiết ra chất protein có tên BDNF (brain-derived neurotrophic factor). Cùng lúc, chất endorphins trong não bộ cũng được tiết ra. Chất nầy làm êm dịu sự khó chịu, chặn đứng cơn đau, giúp cho ta cảm thấy hưng phấn (euphoria), nhà nghiên cứu McGovern viết như thế.

8. Thiền có thể tái tạo não bộ tốt hơn

Tác giả bài báo viết, tôi cứ tưởng thiền chỉ giúp tôi gia tăng sự chú ý và có sự an lạc suốt ngày, nhưng không phải chỉ có thế, thiền mang đến cả khối lợi ích. Sau đây là vài thí dụ:

- Ít bị âu phiền: Điều nầy rất thích thú. Thiền nhiều, âu phiền ít (The more we meditate, the less anxiety we have). Vì lúc chúng ta thiền thì những con đường kết nối các dây thần kinh được nới lỏng (we're actually loosening the connections of particular neural pathways). Nghe có vẻ tai hại, nhưng không. Vì phần giữa vỏ não trước trán gọi là trung tâm chuyển tải ("me center") các thông tin liên hệ và những kinh nghiệm của chúng ta. Thông thường, các đường chuyển dây thần kinh đi từ cảm giác của cơ thể và những trung tâm xử lý cảm xúc sợ hãi của não bộ đến vùng "me center" rất mạnh. Lúc có biến cố như sợ hãi hoặc giận hờn thì vùng nầy bị phản ứng mạnh làm cho chúng ta sợ hãi và cảm thấy đang bị tấn công hoặc đe dọa. Khi thiền được 20 phút, thì những mối kết nối của dây thần kinh được nới lỏng. Có nghĩa là chúng ta không còn phản ứng mạnh đối với các cảm xúc trong vùng “me center”. Xem hình đính kèm:

- Nhiều sáng tạo (more Creativity): Một thí nghiệm tại Đại học Leiden University, Netherlands cho thấy, Thiền chú ý tập trung (focused-attention meditation) không có dấu hiệu làm gia tăng sự sáng tạo. Trái lại, Thiền buông thư (open-monitoring meditation) có dấu hiệu gia tăng.

- Trí nhớ tốt hơn (Better Memory): Bà Catherine Kerr, một thí nghiệm viên tại Martinos Center, nhận thấy những người thực hành Thiền Chánh niệm (mindful meditation) thì não bộ tự điều chỉnh loại bỏ những thứ làm xao lãng tâm trí và ngay cả gia tăng hiệu năng so với những người không thiền (screens out distractions and increase their productivity). Thiền, còn làm tăng gia lòng từ bi, giảm căng thẳng, cải thiện kỹ năng nhớ và gia tăng trí thông minh (Meditation has also been linked to increasing compassion, decreasing stress, improving memory skills and even increasing the amount of gray matter in the brain).

VÀI CÂU HỎI GỢI Ý GHI CHÚ

1. Lý do, ý chí quyết định sự thành công?
2. Tại sao căng thẳng làm mất trí nhớ?
3. Kể vài ích lợi của não bộ nhờ thiền.

1. (Đoạn văn tiếng Việt được lược dịch từ bản tiếng Anh do “EquiSync Support [email protected]” gởi đến.
2. Bài viết bằng tiếng Việt, dựa theo bài “10 Surprising Things That Benefit Our Brains That You Can Do Every Day”, http://www. huffingtonpost.com/belle-beth-cooper/10-surprisin things-thatbenefit-our-brains_b_4275770.html?utm_hp_ref=meditation, Posted 11/19/2013 7:36 pm.
3. “It has been debated whether post-traumatic stress disorder (PTSD) can actually shrink the hippocampus, or whether people with naturally smaller hippocampuses are just more prone to PTSD”

Bài 5: Thiền và YOGA

Những khác biệt giữa Thiền và Yoga
Tám nhánh yoga
Sáu loại thiền
Thiền và Chánh niệm là gì?


NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA THIỀN VÀ YOGA (1)

Nhiều người chưa biết rõ những khác biệt giữa thiền và yoga, đôi lúc họ nói, tôi đang thiền, người khác cho biết tôi đang tập yoga. Có người nghĩ thiền và yoga giống nhau.Người khác, thì nói hai thứ rất khác biệt.

Trước hết, chúng ta nên có một hiểu biết đúng đắn về nghĩa hai từ thiền và yoga. Yoga bắt nguồn từ cổ ngữ Sankrist, có nghĩa là hợp nhất (union). Tức là kết nối giữa linh hồn (soul) và thần linh (Spirit) hay giữa cá thể (individual) và vũ trụ (universe). Mặt khác, yoga không chỉ có nghĩa là diễn tả trạng thái kết hợp mà còn có nghĩa là đạt được trạng thái kết hợp ấy.

8 NHÁNH CỦA YOGA LÀ GÌ?

Theo cuốn Yoga Sutras của nhà hiền triết Patanjali, một trong những bài viết khoa học về triết lý cơ bản của Yoga, 8 nhánh của Yoga (tiếng Phạn - Ashtanga) là: Mỗi nhánh là một khía cạnh của quá trình đạt được một lối sống lành mạnh và viên mãn, mỗi nhánh được xây dựng dựa trên nền tảng của nhánh trước đó. Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng việc thực hành các tư thế yoga chỉ là một trong 8 nhánh mà thôi. Dưới đây là sự miêu tả về 8 nhánh:

1. Yama (Do’s) [Bước]
2. Niyama (Don’ts) [Lùi]
3. Asanas (Positions) [Đứng]
4. Pranayama (Control of breath or Life Force) [Nín thở]
5. Pratyahara (Sense Withdrawal) [Hủy cảm]
6. Dharana (Concentration) [Tập trung]
7. Dhyana (Meditation) [Trầm tư] and
8. Samadhi (Spiritual Ecstasy) [Xuất thần].


Tám nhánh của Yoga (Eight Limbs) dần dà bị biến đổi, ngày nay có nhiều tác giả diễn nghĩa 8 nhánh này ít có sự tương hợp với nhau. Tìm trên internet tiếng Anh cũng như tiếng Việt, chúng ta sẽ thấy nhận định trên. 

Nhiều quốc gia Tây phương, nhất là Mỹ, cởi mở hơn, theo thiền nhiều hơn yoga. Họ ồ ạt đưa thiền vào bệnh viện, trường học, trại tù, xí nghiệp, và ngay cả bộ Quốc phòng...

Ở Việt Nam, đa số mọi người nghĩ nhầm rằng, thiền chỉ dành cho các nhà tu trong chùa. Vì thế, yoga, hình như, được dân chúng sử dụng nhiều hơn thiền. Nhưng đa số ít biết, ngoài phần luyện tập thể lực, yoga sử dụng thiền để đạt được kết quả chữa trị bệnh tật, tăng cường sức đề kháng, v.v...

Có liệt kê sơ lược một số lợi ích của yoga như: giảm căng thẳng, giảm cân, tăng gia năng lực và hệ miễn nhiễm, thể hình tươi đẹp. Đúng ra là có nhiều hơn nữa. 

Dần dà những ý tưởng tốt đẹp lúc nguyên sơ của người sáng lập yoga bị trôi vào dĩ vãng, yoga phần lớn biến thành thương mại, nhưng vẫn ít thu hút được người lớn tuổi và thành phần có thu nhập thấp. Mỗi ngày, trung bình các thành viên yoga tập khoảng hai giờ. Tốn phí từ 500-800 ngàn đồng tiền Việt, tùy theo địa phương.
 
SÁU LOẠI THIỀN

THIỀN (Sanskrit: Dhyana - tĩnh lặng), là sự tập trung tâm chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ một điều gì khác (Thiền chỉ), hoặc tâm dõi theo hơi thở vào, hơi thở ra).

Thiền phát xuất từ Phật Thích Ca, cách đây hai nghìn năm trăm năm. Thái tử Tất Đạt Đa Gô Ta Ma (Siddhartha Gautama) “từng trải qua sáu năm liên tục tu khổ hạnh, ép xác với các đạo sĩ danh tiếng Bà La Môn. Thái tử nhận thấy lối tu khổ hạnh và trầm tư để thể nhập với thần linh của tôn giáo nầy, không thể đưa con người ra khỏi bệnh tật và khổ đau. Do vậy, Ngài rời bỏ các bạn đồng tu, rồi đến một gốc cây đại thụ, tĩnh tọa tham thiền liên tục 49 ngày đêm và đạt sự giác ngộ về kiếp nhân sinh, và được xưng tụng là Phật (Buddha) - Bậc Tỉnh Thức, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thiền Phật giáo bắt nguồn từ đó. Chúng ta cũng nên biết, Ấn giáo chỉ mới xuất hiện vào thế kỷ 16. Do đó Ấn giáo không có ảnh hưởng gì đến giáo pháp của đức Thích Ca (https://vi.wikipedia.org/ wiki/%E1%BA%A4n_%C4%90%E1%BB%99_gi%C3%A1o).

Thiền mà Phật dạy cho các đệ tử, có hai giai đoạn chính, tôi tạm gọi là hai loại thiền. Giai đoạn đầu là Thiền thể nhập với thế gian (Phật pháp bất ly thế gian pháp) để người thực hành đạt được sự an lạc của tâm và mạnh khỏe của thân. Tôi gọi là Thiền Sức khỏe (Meditation for health), và giai đoạn thứ hai là Thiền Giác ngộ (Meditation for Enlightenment). 

Cách thực hành và ích lợi của Thiền sức khỏe (vì sự lợi ích của thiền và những chứng cứ của khoa học nên chúng ta có thể tạm gọi là Thiền sức khỏe). Thiền được mô tả trong nhiều bộ kinh của đạo Phật như, kinh Tứ niệm xứ, kinh Quán niệm hơi thở, kinh Quán vô lượng thọ, kinh An ban thủ ý,… Thực tế, tất cả kinh điển của nhà Phật đều quy về một điểm là hướng dẫn hành giả đạt đến giải thoát giác ngộ qua con đường thiền định.

Sáu loại thiền khác nhau tùy theo mục đích:

- Thiền Chánh niệm (Mindful meditation)
- Thiền Quán tưởng (Reflective meditation)
- Thiền Niệm chú (Mantra mediation)
- Thiền Chú ý tập trung (Focused meditation)
- Thiền quán tưởng hình ảnh (Visualisation meditation)
- Thiền thở (Breath meditation)

Hành giả có thể chọn loại thiền nào thích hợp cho mình. 

Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) thường dành cho những người có trình độ Phật học cao, thường là các nhà sư. Mục đích của Thiền giác ngộ là để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Tuy  nhiên, bằng các thí nghiệm thực tế, các nhà khoa học hiện đại đều thống nhất quan điểm với nhau rằng: Thiền có vô số lợi ích thiết thực trong việc giúp chữa trị các bệnh thuộc hệ tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, ung thư, sida, hệ thần kinh, mất ngủ, chấn thương sau thời hậu chiến…, ngoài ra còn làm tăng năng lực, trí nhớ, sắc đẹp, chữa bệnh hiếm muộn, bệnh chợ chưa đi mà tiền đã hết. Hơn thế nữa, nhìn sâu xa hơn thì việc ứng dụng thiền vào quản lý vĩ mô sẽ giúp phát triển kinh tế, xí nghiệp, cải thiện nhân sinh, nhân dân có cuộc sống hạnh phúc và an lạc hơn. Có thể nói rằng Thiền sức khỏe là một Pháp-Hành theo lối sống và vận hành để “Phật pháp bất ly thế gian pháp”: Nếu con người không có sức khỏe thì cũng khó để tu hành để đạt được Giác ngộ Giải thoát.
 
THIỀN VÀ CHÁNH NIỆM LÀ GÌ?
(What is meditation and mindfulness?) 

Một ngày có 24 giờ, mà chúng ta thực hành thiền chỉ có một giờ, còn 23 giờ không thiền. Vậy kết quả sẽ ra sao? Ví như một người chống lại 23 người. Để chỉnh đốn điều bất cập ấy, kinh nhà Phật dạy, ngoài giờ thiền, hành giả luôn sống chánh niệm (mindful living).

Đi, đứng, nằm, ngồi (hành, trụ, tọa, ngọa) trong chánh niệm. Thực hành Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) cũng gọi là thiền.

Từ là thương. Bi là giúp người nếu có thể. Hỷ là an vui. Xả là bỏ qua không cố chấp. Do vậy ngoài giờ tọa thiền chúng ta nên tập sống với tinh thần của Tứ vô lượng tâm. Xa hơn, ta phải rèn luyện để có khả năng thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, nghề đúng, siêng năng đúng, nhớ nghĩ đúng, thiền định đúng (Tám chánh đạo). Đây chính là lối Sống thiền hoặc Thiền hành động (Meditation in action) hay Thiền chánh niệm (Mindfulness Meditation). Như vậy, chúng ta thực hành thiền 24/24 giờ mỗi ngày. 

Nhìn thiền từ lối sống với Tứ vô
loading...