Góc nhìn Phật tử

Trách nhiệm giữa thầy và trò qua Kinh Luật (II)

Thứ bảy, 29/10/2019 09:54

Ngoài việc thờ kính, hầu hạ thầy, đệ tử còn phải nghĩ đến ơn đức của sư trưởng đã vun vén, dạy dỗ hướng dẫn cho mình đi trên con đường chánh pháp, cũng nhờ nơi thầy mà mình có chánh kiến, nhờ chánh kiến nên không đi vào con đường ác, đươc an lạc hạnh phúc trong đời sống hiện tại.

 >>Phật pháp và cuộc sống

Bài liên quan

Khi có đủ tư cách để độ người, thâu nhận đệ tử cho xuất gia, sống hoà cùng Tăng chúng. Vị thầy phải quan tâm đến cuộc sống của người đệ tử, họ sống ra sao? Có thiếu thốn gì không? Trong sinh hoạt hằng ngày có gì trở ngại, trong pháp chỗ nào không hiểu. Như vậy trách nhiệm của một vị thầy đối với đệ tử thật là lớn lao. Bởi vì người đệ tử khi rời xa gia đình, tự nguyện sống đời phạm hạnh không còn chịu sự chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ nữa thì Thầy chính là người chịu trách nhiệm thay cha mẹ nuôi dạy cho đệ tử nên người không phải chỉ thành một người bình thường mà dạy để trở thành một Thiên nhơn chi đạo sư, một bậc xuất trần thượng sĩ, thay Phật tiếp Tổ kế vãng khai lai. Nên trách nhiệm của người Thầy không thể tính bằng một thời gian nào mà là sự thành tựu trong suốt quá trình tu tập của đệ tử.

Ngoài việc thờ kính, hầu hạ thầy, đệ tử còn phải nghĩ đến ơn đức của sư trưởng đã vun vén, dạy dỗ hướng dẫn cho mình đi trên con đường chánh pháp, cũng nhờ nơi thầy mà mình có chánh kiến, nhờ chánh kiến nên không đi vào con đường ác, đươc an lạc hạnh phúc trong đời sống hiện tại.

Ngoài việc thờ kính, hầu hạ thầy, đệ tử còn phải nghĩ đến ơn đức của sư trưởng đã vun vén, dạy dỗ hướng dẫn cho mình đi trên con đường chánh pháp, cũng nhờ nơi thầy mà mình có chánh kiến, nhờ chánh kiến nên không đi vào con đường ác, đươc an lạc hạnh phúc trong đời sống hiện tại.

Bài liên quan

Thế nên, vị thầy cần lấy năm điều mà đối xử với đệ tử: “1) tuỳ thuận theo phép điều ngự; 2) dạy những điều mà trò chưa biết; 3) tuỳ theo sự nghe biết của học trò mà khiến cho hiểu thấu căn lành; 4) chỉ kẻ hiền lành cho đệ tử kết bạn; 5) đem hết chỗ hiểu biết của mình mà dạy trao cho trò không lẫn tiếc”. Ngoài cách đối xử ra vị thầy phải có các phương pháp để dạy đệ tử. Trong Ma ha tăng Kỳ quyển 28 có viết: “Hoà thượng và A-xà-lê nên dạy bảo đệ tử đồng hành và đệ tử y chỉ bằng các phương pháp dạy dỗ là: 1) họ không thanh tịnh nên ngăn cản; 2) khuyên đừng đến những nơi không nên đến; 3) họ bị yết ma phải giúp đỡ; 4) họ sanh tà kiến mình phải giải toả; 5) tự mình xuất tội hay nhờ người xuất tội; 6) khi họ bệnh tự mình chăm sóc hoặc nhờ người chăm sóc; 7) khi họ gặp nạn, tự mình hoặc nhờ người giải cứu; 8) khi họ gặp nạn vua, giặc, mình phải hoá giải”, những phương pháp này nhằm mục đích hàng phục chế ngự tâm tánh của các đệ tử, cụ thể như đệ tử kiến chấp như huỷ báng kinh điển, hoặc ác tà kiến, hoặc biên kiến thì Hoà thượng, A-xà-lê nên dạy: “ông đừng sanh khởi kiến giải như thế, đó là việc ác, đoạ xuống địa ngục chịu khổ lâu dài. Nếu dạy bảo y các điều như  vậy mà y bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì nên nhờ người quen biết với y, nói như sau: “Xin trưởng lão hạy khuyên người ấy từ bỏ ác kiến”.

Ngược lại, nếu vị thầy thâu nhận đệ tử độ cho xuất gia, cho hội nhập vào Tăng chúng tu tập, cho thọ giới tỳ kheo trong suốt thời gian sống với nhau mà vị thầy không dạy dỗ đệ tử, không hướng dẫn các phương pháp tu tập, không bắt sám hối khi phạm tội, không chỉ dẫn con đường đi khi đệ tử bị sai đường... nói chung là vị thầy không quan tâm, không có trách nhiệm với đệ tử mình thì chính người thầy là người thiếu trách nhiệm có lỗi với Phật, với pháp, với chúng tăng và là một trong những nguyên nhân để thế gian chê cười.

Đức Phật dạy: “nếu có chúng sanh nào biết trả ơn, người ấy đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống chi ơn lớn. Lúc ấy dầu cách đây trăm ngàn do tuần cũng chẳng khác gì gần bên ta. Ta thường khen ngợi. Trái lại có chúng sanh chẳng biết trả ơn, ơn lớn còn chẳng nhớ huống chi ơn nhỏ, dầu có gần ta, ta cũng chẳng gần, dầu cho mặc áo Tăng ở hai bên tả hữu gần ta đi nữa, người ấy vẫn như xa ta”.

Đức Phật dạy: “nếu có chúng sanh nào biết trả ơn, người ấy đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống chi ơn lớn. Lúc ấy dầu cách đây trăm ngàn do tuần cũng chẳng khác gì gần bên ta. Ta thường khen ngợi. Trái lại có chúng sanh chẳng biết trả ơn, ơn lớn còn chẳng nhớ huống chi ơn nhỏ, dầu có gần ta, ta cũng chẳng gần, dầu cho mặc áo Tăng ở hai bên tả hữu gần ta đi nữa, người ấy vẫn như xa ta”.

Trong kinh Bồ tát Thiện giới nói: “Từ những kẻ Chiên đà la cho đến hạng đồ tể, tuy làm nghiệp ác nhưng không phá hoại chánh pháp Như Lai, thì không hẳn sẽ đoạ vào trong đường ác. Nhưng làm thầy mà không thể dạy bảo la rầy đệ tử, thì đó là phá pháp của Phật, chắc chắn đoạ vào địa ngục” Hoặc như trong kinh Ưu Bà Tắc giới nói rằng: “Thà thọ ác giới, trong một ngày mà đọan vô lượng mạng căn, chứ nhất quyết không nuôi dưỡng đệ tử tệ ác, không thể điều phục. Vì sao vậy? Bởi ác luật nghi chỉ đem lại tai hại cho thân mình thôi, còn nuôi đệ tử tệ ác, không thể dạy dỗ thì làm cho vô lượng chúng sanh tạo ác, chúng có khả năng huỷ báng vô lượng pháp tốt đẹp huyền diệu và hoà hợp Tăng, khiến cho nhiều chúng sanh tạo ngũ vô gián tội. Cho nên nói tai hại hơn ác luật nghi là vậy”.

Bài liên quan

Từ những điều đã đề cập ở trên đã cho thấy trách nhiệm của một vị thầy đối với đệ tử mình vô cùng quan trọng. Người đệ tử có được sự thành tựu trong quá trình tu tập, đạt được lý tưởng ban đầu xuất gia hay không phần lớn đều nhờ nơi vị thầy của mình. Ngược lại người đệ tử cũng phải biết bổn phận của mình đối với thầy dạy đạo, người đã trao cho mình giới thân tuệ mạng làm tăng trưởng tâm bồ đề, từng bước từng bước đưa mình ra khỏi con đường sanh tử hiểm nạn, cho nên đệ tử phải trọn đời kính thờ thầy, phải giúp đỡ thầy những việc cần thiết. Vì vậy trong kinh Thiện Sanh dạy đệ tử kính phụng Sư trưởng có năm điều: 1) phải hầu hạ; 2) lễ kính cúng dường; 3) tôn trọng trên đầu cổ; 4) những lời thầy dạy bảo phải cung kính tuỳ thuận, chớ không được chống trái; 5) khi đi theo thầy nghe được điều gì hay, khéo nhớ giữ gìn chớ để lãng quên”.

Ngoài viêc kính thờ thầy, đệ tử cần phải biết hầu thầy, chăm sóc sức khoẻ cho thầy, làm thay những công việc để thầy có thời gian làm việc khác. Trong Ma Ha Tăng Kỳ quyển 34 có dạy cách: “đệ tử phụng sự vị thầy Hoà thượng như sau: Buổi sáng phải dậy sớm, trước hết bước chân phải vào phòng Hoà thượng, khi vào xong cúi đầu đảnh lễ dưới chân hỏi xem Hoà thượng ngủ có ngon giấc không? Rồi nhận kinh, hỏi han công việc, đem đổ bô tiểu tiện, ống nhổ, xong rồi để lại chỗ cũ. Tiếp đến lấy nước đổ lên nền nhà, rồi quét lau nền nhà. Đoạn rửa tay sạch, rồi trao nước, bàn chãi đánh răng, cầm bát đi lấy cháo cho thầy. Khi thầy ăn xong rửa bát cất lại chỗ cũ. Nếu có nhà nào mời thầy thọ trai, thì đến đó lấy thức ăn.

Là đệ tử phải biết hiếu kính thầy, phải nghĩ rằng hình ảnh của vị thầy là sự kết hợp song song giữa cha và mẹ, thế nên có khi thầy nghiêm khắc như người cha, cũng có khi nhẹ nhàng như người mẹ, vậy nên bổn phận người học trò phải làm những việc để thầy hài lòng. Khi bị thầy quở trách thì phải tuỳ thời mà xin sám hối.

Là đệ tử phải biết hiếu kính thầy, phải nghĩ rằng hình ảnh của vị thầy là sự kết hợp song song giữa cha và mẹ, thế nên có khi thầy nghiêm khắc như người cha, cũng có khi nhẹ nhàng như người mẹ, vậy nên bổn phận người học trò phải làm những việc để thầy hài lòng. Khi bị thầy quở trách thì phải tuỳ thời mà xin sám hối.

Bài liên quan

Khi thầy muốn vào thôn xóm, thì trao y thường mặc vào thôn xóm, rồi xếp y thầy mặc trong viện lại, treo chỗ cũ. Lúc vào thôn xóm nên đi theo sau thầy. Nếu muốn khất thực nên bạch với Hoà thượng. Nếu mình về trước nên trải giường ngồi cho Hoà thượng, rồi lấy nước sạch, rải cỏ lá đợi Hoà thượng về. Khi Hoà thượng về nên đưa y mặc trong Thiền viện cho Hoà thượng, rồi lấy chiếc y mặc vào thôn xóm đập giũ, xếp lại, treo vào chỗ cũ. Nếu trời nóng thì nên đưa nước tắm cho thầy. Nếu trời lạnh thì nên đốt lò lửa. Nếu được thức ăn ngon thì nên dâng cho Hoà thượng. Khi Hoà thượng ăn nên đưa nước rửa tay rồi đưa thức ăn. Nếu thời tiết nóng nên đưa nước lạnh, rồi cầm quạt, quạt cho thầy. Khi Hoà thượng ăn xong, dọn bát, nhặt cỏ lá, rửa bát rồi cất lại chỗ cũ. Nếu Hoà thượng muốn vào rừng ngồi thiền thì nên lấy toạ cụ vắt lên vai, mang bình nước đi theo Hoà thượng. Đến nơi rồi hoặc học kinh hoặc hỏi nghĩa, khi được chỉ dạy nên tìm một chỗ ngồi tu tập…”, đối với Hoà thượng, đệ tử phải thực hiện những việc kể trên, nếu không làm thì vượt pháp oai nghi. Nếu Hoà thượng có nhiều đệ tử, thì mỗi người tối thiểu cũng phải lau giường Hoà thượng một lần. Đó là phận sự của đệ tử.

Ngoài việc thờ kính, hầu hạ bậc thầy, đệ tử còn phải đem lòng nhớ nghĩ đến ơn đức của sư trưởng đã vun vén, dạy dỗ hướng dẫn cho mình đi trên con đường chánh pháp, cũng nhờ nơi thầy mà mình có chánh kiến, nhờ chánh kiến nên không đi vào con đường ác, đươc an lạc hạnh phúc trong đời sống hiện tại. Vì thế một người đệ tử muốn vuông tròn đạo hạnh của mình thì phải biết nghĩ nhớ đến các ân đức mà thầy đã vun vén, nguyện trọn đời không quên như thế thì mới xứng đáng là một đệ tử có đạo hạnh.

Trong bộ Căn Bản Tạp sự nói: “có người nương tựa nơi thầy, xuất gia trong giáo pháp của Phật, cạo bỏ râu tóc, mặc áo pháp của Phật, tâm hồn trong trắng đầy đủ lòng tin, gọi là xuất gia như pháp. Người ấy đối với thầy cho đến trọn đời tứ sự cúng dường cũng chưa có thể trả ơn hết được” Ngoài ra trong kinh đức Phật dạy: “nếu có chúng sanh nào biết trả ơn, người ấy đáng kính, ơn nhỏ còn chẳng quên huống chi ơn lớn. Lúc ấy dầu cách đây  trăm ngàn do tuần cũng chẳng khác gì gần bên ta. Ta thường khen ngợi. Trái lại có chúng sanh chẳng biết trả ơn, ơn lớn còn chẳng nhớ huống chi ơn nhỏ, dầu có gần ta, ta cũng chẳng gần, dầu cho mặc áo Tăng ở hai bên tả hữu gần ta đi nữa, người ấy vẫn như xa ta”.

Đức Phật dạy: “Các ngươi phải nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng, cha mẹ từng sanh thân này dạy bảo nhưng không thể làm cho ta ra khỏi ba đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn khuyến dụ dắt dẫn lúc sơ cơ, cho được xuất gia rồi truyền trao cho giới cụ túc. Đó tức là kẻ hoài thai La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa sanh tử và được yên vui Niết Bàn. Sư trưởng có ơn đức xuất thế ấy ai hay báo đáp? Nếu người nào chung thân hành đạo, đó chỉ mới là tự lợi, chứ chưa phải báo đáp ơn thầy”.

Đức Phật dạy: “Các ngươi phải nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng, cha mẹ từng sanh thân này dạy bảo nhưng không thể làm cho ta ra khỏi ba đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn khuyến dụ dắt dẫn lúc sơ cơ, cho được xuất gia rồi truyền trao cho giới cụ túc. Đó tức là kẻ hoài thai La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa sanh tử và được yên vui Niết Bàn. Sư trưởng có ơn đức xuất thế ấy ai hay báo đáp? Nếu người nào chung thân hành đạo, đó chỉ mới là tự lợi, chứ chưa phải báo đáp ơn thầy”.

Bài liên quan

Lại nữa, là đệ tử phải biết hiếu kính thầy, phải nghĩ rằng hình ảnh của vị thầy là sự kết hợp song song giữa cha và mẹ, thế nên có khi thầy nghiêm khắc như người cha, cũng có khi nhẹ nhàng như người mẹ, vậy nên bổn phận người học trò phải làm những việc để thầy hài lòng. Khi bị thầy quở trách thì phải tuỳ thời mà xin sám hối. Khi thầy khuyên nhủ động viên phải biết cầu tiến được như vậy mới là đệ tử hiếu thuận. Ngược lại gặp khi thầy la rầy mà sanh ác tâm, khinh rẻ, oán giận chắc chắn người ấy sẽ nhận lấy hậu quả không tốt. Điều nầy được kinh Lương Hoàng Sám mô tả rất rõ ràng như  sau: “Người ngu si tự thị không tin tội phước, huỷ báng Sư trưởng, ghen ghét tật đố. Những người như vậy là Ma vương trong Phật pháp, là dòng giống địa ngục, tự kết oán thù, chịu quả đau khổ vô cùng”. Như ngài Hoa Quang Tỳ kheo khéo thuyết pháp bí yếu, có một đệ tử thường ôm lòng kiêu mạn, Hoà thượng dạy bảo không tin, không nghe lại còn nói: - Đại Hoà thượng của tôi không có trí tuệ, thường hay tán thán những việc trống rỗng như hư không. Tôi nguyện đời sau không thấy thầy nữa.

Người đệ tử đó, từ ngày ấy pháp nói phi pháp, phi pháp nói pháp. Tuy trì giới cấm không huỷ phạm nhưng vì khinh chê thầy mình, nên sau khi chết, trong một nháy mắt liền đoạ địa ngục A Tỳ, tám mươi ức kiếp thường chịu mọi thắng khổ.

Chúng ta nên nhớ rằng, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Một lần mất thân người thì muôn kiếp khó tìm lại được. Vì thế nên biết đối với Sư trưởng phải có niềm tin, lòng không nên nghi ngờ, sanh ác tâm mà chịu quả khổ.

Tam tạng kinh điển của Phật giáo vô lượng vô biên nhưng trong đó mối quan hệ giữa thầy và trò cũng được ghi lại khá đầy đủ qua các kinh luật. Điều này minh chứng rằng tình thầy trò trong Phật giáo vô cùng quan trọng. Bởi vì mối quan hệ thầy trò chính là sự truyền thừa mạng mạch của Phật pháp. Vì vậy, hình ảnh của vị thầy qua các kinh luật có thể nói là một khuôn mẫu, sáng suốt, nhiệt tình có trí tuệ đạo lực để che chở cho đệ tử nên được đức Phật đề cao, trọn một đời xuất gia hành đạo người học trò gởi trọn cho thầy.

Chính vì thế mà sự tiến bộ hay sa đoạ của bất cứ người xuất gia nào không phải chỉ mang lại hậu quả cho người đó, mà có liên hệ đến sự hưng thịnh hay suy vong của Phật pháp. Đức Phật đã từng nói: “Thà làm một tên đồ tể gây nghiệp sát hại chứ không thâu nhận đệ tử xuất gia mà không biết giáo dục, khiến cho Phật pháp vì thế mà sớm bị diệt vong”. Đồng thời người đệ tử cũng phải biết bổn phận gần gũi hầu thầy đúng như phép tắc và luôn luôn hoài niệm thâm ân về thầy.

Trong kinh Lương Hoàng sám đức Phật dạy: “Các ngươi phải nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng, cha mẹ từng sanh thân này dạy bảo nhưng không thể làm cho ta ra khỏi ba đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn khuyến dụ dắt dẫn lúc sơ cơ, cho được xuất gia rồi truyền trao cho giới cụ túc. Đó tức là kẻ hoài thai La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa sanh tử và được yên vui Niết Bàn. Sư trưởng có ơn đức xuất thế ấy ai hay báo đáp? Nếu người nào chung thân hành đạo, đó chỉ mới là tự lợi, chứ chưa phải báo đáp ơn thầy”.

loading...